Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện – Phẩm Thứ Bảy – Lợi Ích Cả Kẻ Còn Người Mất

Loading ....
Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện, khổ mini
Đã bán: Đánh giá/quan tâm:
(5/5)
cập nhật: 16/06/2023
Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện, Khổ A4
Đã bán: Đánh giá/quan tâm:
(0/5)
cập nhật: 16/06/2023
KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN TRỌN BỘ 2021
Đã bán: Đánh giá/quan tâm:
(1/5)
cập nhật: 14/07/2021
Sách - Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Khổ A4
Đã bán: Đánh giá/quan tâm:
(0/5)
cập nhật: 16/06/2023
Sách - Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Khổ Mini
Đã bán: Đánh giá/quan tâm:
(0/5)
cập nhật: 16/06/2023

 

Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Pháp Đăng

Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Tịnh

Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện: 1. Khuyên Tu Thánh Ðạo

Lúc đó Ngài Ðịa Tạng đại Bồ tát bạch cùng đức Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Con xem xét chúng sinh trong cõi Diêm Phù sanh tâm động niệm không chi là chẳng phải tội.

Nếu gặp những việc về pháp sự lợi lành phần nhiều thối thất tâm tốt ban đầu. Còn hoặc khi gặp duyên sự bạo ác chẳng lành lại lần lần thêm lớn: Những hạng người trên đó như kẻ mang đá nặng đi trong bùn lầy càng nặng thêm lần, càng khốn đốn thêm lần, chân đạp lún lút sâu.

Những người đó hoặc gặp hàng thiện tri thức đội giùm đá bớt cho, hoặc là đội giùm hết cả. Vì hàng thiện tri thức đó có sức rất khỏe mạnh lại dìu đỡ người ấy khuyên gắng làm cho người ấy mạnh hơn lên.

Nếu khi ra khỏi bùn lầy đến chỗ đất bằng phẳng rồi, thời cần phải xét nghĩ đến con đường hiểm xấu ấy, đừng có đi vào đó nữa.

Bạch đức Thế Tôn! Những chúng sinh quen theo thói ác, bắt đầu từ mảy mún rồi lần đến nhiều vô lượng.

Ðến khi những chúng sinh quen theo thói chẳng lành ấy sắp sửa mạng chung, thời cha mẹ cùng thân quyến vì người đó mà tu tạo phước lành để giúp tiền đồ cho người đó.

*

Hoặc treo phan lọng và thắp đèn dầu, hoặc chuyển đọc Tôn Kinh. Hoặc cúng dường tượng Phật cùng hình tượng của các vị Thánh. Cho đến niệm danh hiệu của Phật và Bồ tát cùng Bích Chi Phật, làm cho một danh một hiệu thấu vào lỗ tai của người sắp mạng chung, hoặc là nơi bổn thức nghe biết.

Cứ theo nghiệp ác của người đó đã gây tạo, suy tính đến quả báo, thời đáng lẽ người đó phải bị đọa vào ác đạo. Song nhờ thân quyến vì người đó mà tu nhơn duyên Thánh đạo. Cho nên các điều tội ác của người đó thảy đều tiêu sạch.

Như sau khi người đó đã chết, lại có thể trong bốn mươi chín ngày vì người ấy mà tu tạo nhiều phước lành. Thời có thể làm cho người chết đó khỏi hẳn chốn ác đạo, được sanh lên cõi trời hoặc sanh trong loài người hưởng lấy nhiều sự rất vui sướng. Mà kẻ thân quyến hiện tại đó cũng được vô lượng điều lợi ích.

Vì lẽ trên đó nên nay con đối trước đức Phật Thế Tôn cùng với hàng Trời, Rồng, tám bộ chúng, người với phi nhơn v.v… mà có lời khuyên bảo những chúng sinh trong cõi Diêm Phù Ðề. Ngày lâm chung kẻ thân thuộc phải cẩn thận chớ có giết hại và chớ gây tạo nghiệp duyên chẳng lành. Cũng đừng tế lễ Quỷ, Thần, cầu cúng ma quái.

*

Vì sao thế? Vì việc giết hại cho đến tế lễ đó, không có một mảy mún chi lợi ích cho người chết cả. Chỉ có kết thêm tội duyên của người đó làm cho càng thêm sâu nặng hơn thôi.

Giả sử người chết đó hoặc là đời trước hay đời hiện tại vừa rồi, đã chứng đặng phần Thánh quả sẽ sanh vào cõi Trời, cõi người. Nhưng bị vì lúc lâm chung hàng thân thuộc gây tạo những nghiệp nhơn không lành. Cũng làm cho người chết đó mắc lấy ương lụy phải đối biện, chậm sanh vào chốn lành.

Huống gì là người kia chết, lúc sanh tiền chưa từng làm được chút phước lành. Đều theo ác nghiệp của họ đã gây tạo mà tự phải bị sa đọa vào ác đạo.

Hàng thân thuộc nỡ nào lại làm cho tội nghiệp của người ấy nặng thêm!

Cũng ví như, có người từ xứ xa đến, tuyệt lương thực đã ba ngày. Đồ vật của người đó mang vác nặng hơn trăm cân, bỗng gặp kẻ lân cận lại gởi một ít đồ vật nữa, vì vậy mà người xứ xa đó càng phải khốn khổ nặng nề thêm.

Bạch đức Thế Tôn! Con xem xét những chúng sinh trong cõi Diêm Phù Ðề, ở nơi trong giáo pháp của Phật. Nếu có thể làm việc phước lành cho đến chừng bằng sợi lông, giọt nước, bằng một hột cát, một mảy bụi nhỏ, thời tất cả chúng sinh đó đều tự mình được lợi ích cả.

Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện: 2. Trưởng giả Bạch Hỏi

Khi Ngài Ðịa Tạng nói lời như thế xong, trong pháp hội có một vị Trưởng giả tên là Ðại Biện.

Ông Trưởng giả từ lâu đã chứng quả vô sanh hiện thân Trưởng giả để hóa độ chúng sinh trong mười phương, ông chắp tay cung kính mà thưa hỏi Ngài Ðịa Tạng Bồ tát rằng:

“Thưa Ðại Sĩ! Trong cõi Nam Diêm Phù Ðề có chúng sinh nào sau khi mạng chung, mà hàng quyến thuộc hoặc kẻ lớn người nhỏ, vì người chết đó mà tu các công đức. Cho đến thiết trai cúng dường, làm những phước lành. Thời người chết đó, có đặng lợi ích lớn cùng đặng giải thoát chăng?”

Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện: 3. Kẻ Còn, Người Mất Ðều Ðược Lợi

Ngài Ðịa Tạng Bồ tát đáp rằng: “Này ông Trưởng giả! Nay tôi vì tất cả chúng sinh trong hiện tại này cùng thuở vị lai sau, nương nơi oai thần của Ðức Phật mà nói lược về việc đó.

Này ông Trưởng giả! Những chúng sinh ở hiện tại hay vị lai, lúc sắp mạng chung mà nghe đặng danh hiệu của một Ðức Phật, danh hiệu của một Bồ tát hay danh hiệu của một Bích Chi Phật. Thời không luận là có tội cùng không tội đều được giải thoát cả.

Như có người nam cùng người nữ nào lúc sanh tiền không tu tạo phước lành mà lại gây lấy những tội ác. Sau khi người mạng chung, hàng thân quyến kẻ lớn người nhỏ vì người chết mà tu tạo phước lợi làm tất cả việc về Thánh đạo. Thời trong bảy phần công đức người chết nhờ đặng một phần, còn sáu phần công đức thuộc về người thân quyến hiện lo tu tạo đó.

Bởi vì cớ trên đây, nên những người thiện nam cùng thiện nữ ở hiện tại và vị lai, nghe lời nói vừa rồi đó nên cố gắng mà tu hành thời đặng hưởng trọn phần công đức.

Con quỷ dữ vô thường kia không hẹn mà đến, thần hồn vơ vẩn mịt mờ chưa rõ là tội hay phước. Trong bốn mươi chín ngày như ngây như điếc, hoặc ở tại các ty sở để biện luận về nghiệp quả. Khi thẩm định xong thời cứ y theo nghiệp mà thọ lấy quả báo.

*

Trong lúc mà chưa biết chắc ra làm sao đó thời đã nghìn muôn sầu khổ, huống là phải bị đọa vào các ác đạo.

Thần hồn người chết đó khi chưa được thọ sanh, ở trong bốn mươi chín ngày, luôn luôn trông ngóng hàng cốt nhục thân quyến tu tạo phước lành để cứu vớt cho.

Qua khỏi bốn mươi chín ngày thời cứ theo nghiệp mà thọ lấy quả báo.

Người chết đó, nếu là kẻ có tội thời trải qua trong nghìn năm không có ngày nào được thoát khỏi.

Còn nếu là kẻ phạm năm tội vô gián thời phải đọa vào đại địa ngục chịu mãi những sự đau khổ trong nghìn kiếp muôn kiếp.

Lại vầy nữa, này ông Trưởng giả! Sau khi những chúng sinh gây phạm tội nghiệp như thế mạng chung. Hàng cốt nhục thân quyến có làm chay để giúp thêm phước lành cho người chết đó.

Thời khi sắm sửa chưa rồi, cùng trong lúc đương làm chớ có đem nước gạo, lá rau v.v… đổ vãi ra nơi đất, cho đến các thứ đồ ăn chưa dưng cúng cho Phật cùng Tăng thời chẳng được ăn trước.

*

Nếu như ăn trái phép và không được tinh sạch kỹ lưỡng. Thời người chết đó trọn không được mảy phước nào cả.

Nếu có thể kỹ lưỡng giữ gìn tinh sạch đem dưng cúng cho Phật cùng Tăng. Thời trong bảy phần công đức người chết hưởng được một phần.

Này ông Trưởng giả! Vì thế nên những chúng sinh trong cõi Diêm Phù, sau khi cha mẹ hay người thân quyến chết, nếu có thể làm chay cúng dường. Chí tâm cầu khẩn thời những người như thế, kẻ còn lẫn người mất đều đặng lợi ích cả.”

Lúc Ngài Ðịa Tạng nói lời này, tại cung trời Ðao Lợi có số nghìn muôn ức na do tha Quỷ Thần cõi Diêm Phù Ðề, đều phát tâm Bồ Ðề vô lượng.

Ông Trưởng giả Ðại Biện vui mừng vâng lời dạy, làm lễ mà lui ra.

Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện – Lợi ích cả kẻ còn người mất – Phẩm thứ bảy
Danh sách mã giảm giá, ưu đãi, khuyến mãi, lịch sử giá sản phẩm tại Biti's
Danh sách mã giảm giá, ưu đãi, khuyến mãi, lịch sử giá sản phẩm tại MONEYVEO
Avay.vn
Senmo CPQL
AXA ISTH
TNEX - MSB EKYC IOS
MAI TRADING ANDROID
SamCenter
Tìm kiếm sản phẩm ở khung này
Nhập từ khóa sản phẩm bạn cần tra cứu biến động giá bán tại concung, thegioididong, dienmayxanh, fado, tiki
XEM THÊM
  • 10 Câu Hỏi Thường Gặp Nhất Về Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện – Phẩm Thứ Bảy – Lợi Ích Cả Kẻ Còn Người Mất Và Câu Trả Lời (FAQ)
     

    1. Phẩm thứ bảy của Kinh Địa Tạng nói gì về “lợi ích cả kẻ còn người mất”? Nội dung cốt lõi là gì?

    Trả lời:
    Phẩm thứ bảy trình bày chủ đề trọng tâm là những công đức, lợi ích phát sinh khi hành giả (hoặc cộng đồng) tụng kinh, bố thí, sám hối, và hồi hướng công đức, mà các lợi ích này không chỉ ảnh hưởng đến chính người làm mà còn đi tới người đã khuất — giúp họ nhẹ nghiệp, được an ổn, tăng duyên lành để sinh về cõi tốt.

    Cốt lõi gồm ba ý chính:

    1. Công đức (puṇya) do hành thiện tạo ra có thể được hồi hướng để lợi ích cho người khác (kể cả người đã mất).
    2. Tụng niệm, sám hối, bố thí là những phương tiện thiết thực giúp chuyển nghiệp và tạo duyên tốt cho kẻ còn và người mất.
    3. Tác dụng kép: các nghi thức vừa an ủi, hướng dẫn người sống (tâm ổn, biết hành thiện) vừa hỗ trợ vong linh (theo niềm tin truyền thống) trong hành trình sau khi lìa thân.

    Phẩm nhấn mạnh: lợi ích đó phát sinh khi tâm thành, hành động minh bạch, và có kiến thức pháp lý đúng đắn — không phải bằng mê tín hay hành vi lừa đảo.


    2. Cơ chế “hồi hướng công đức” trong phẩm được hiểu thế nào — liệu có thật sự giúp người đã mất?

    Trả lời:
    Trong truyền thống Đại thừa (và trong Kinh Địa Tạng), hồi hướng hiểu theo hai chiều:

    • Về mặt tín ngưỡng/nhân quả: khi ta tạo phúc (bố thí, tụng kinh, giữ giới), việc phát tâm hồi hướng là “chuyển giao” năng lượng thiện lành ấy cho một đối tượng cụ thể. Nếu người quá cố có duyên tương thích, năng lực này giúp họ có thêm “duyên lành” để giảm nghiệp, được gặp thiện tri thức, hoặc sinh về cõi an lành.
    • Về mặt tâm lý và xã hội: hành động hồi hướng làm cho gia đình và cộng đồng an tâm, giảm bi kịch tinh thần, thúc đẩy những hành vi thiện (nuôi dưỡng con cái, làm công tác từ thiện), từ đó thực tế giúp đời sống người sống tốt hơn — hiệu quả gián tiếp cho người mất (chẳng hạn con cháu bớt khổ, sống tốt hơn cho phúc đức chung).

    Khoa học hiện đại không chứng minh được “chuyển năng lượng” siêu nhiên, nhưng nhiều nghiên cứu tâm lý cho thấy ý nghĩa an ủi, củng cố cộng đồng và giảm stress — điều này rõ ràng có lợi cho quá trình tang lễ, đàm phán pháp lý và phục hồi tinh thần gia đình. Trong tinh thần Phật giáo, kết quả thường được hiểu là tùy duyên: không phải luôn có kết quả cụ thể nhưng là một phương pháp có căn nguyên đạo đức để giúp.


    3. Những hình thức hành trì trong phẩm (tụng kinh, bố thí, sám hối…) cụ thể đem lại lợi ích ra sao cho người sống và người mất?

    Trả lời:
    Phẩm liệt kê và khuyến khích nhiều pháp hành; dưới đây cách mỗi pháp đem lợi ích:

    • Tụng kinh (đặc biệt Kinh Địa Tạng):
      • Cho người sống: tăng trí tuệ, an tâm, phát sinh chí nguyện tu hành, giảm sợ hãi trước cái chết.
      • Cho người mất: nếu gia đình tụng tụ tập, hồi hướng, theo truyền thống có thể tạo duyên lành giúp vong linh nhẹ nghiệp, tăng cơ hội sinh về cõi lành.
    • Niệm danh hiệu Bồ Tát/Phật (niệm danh hiệu Địa Tạng):
      • Cho người sống: niệm làm lắng tâm, giảm phiền não, phát sinh từ bi.
      • Cho người mất: niệm và hồi hướng theo truyền thống giúp vong được “nghe danh hiệu” và kết duyên lành.
    • Bố thí (vật chất, tinh thần, pháp thí):
      • Cho người sống: thực hành tha thứ, rộng lòng, giảm tham.
      • Cho người mất: bố thí nhân danh người quá cố, tặng phẩm cho chư Tăng, từ thiện, được coi là chuyển phúc cho vong.
    • Sám hối và ăn chay, trì giới:
      • Cho người sống: chuyển nghiệp, tạo nhân lành, sửa lỗi.
      • Cho người mất: sám làm cho tâm người sống thanh tịnh hơn, tạo nhân lành hồi hướng.

    Tóm lại, các pháp hành kết hợp tâm, ngôn, thân sẽ tạo hiệu ứng kép: chuyển hóa nội tâm người sống và, theo truyền thống, tạo duyên giúp người mất.


    4. Có thời điểm nào đặc biệt trong năm hay chu kỳ tang lễ mà tụng phẩm này đem lại lợi ích nhiều hơn không (ví dụ 49 ngày, 7 ngày, giỗ)?

    Trả lời:
    Trong truyền thống Phật giáo Đông Á, các thời điểm phổ biến để tụng, sám và hồi hướng bao gồm: 3–7 ngày sau khi mất, lễ 49 ngày (7 tuần), 100 ngày, giỗ lần thứ nhất, hàng năm. Ý nghĩa:

    • 49 ngày (7 tuần): thường coi là chu kỳ quan trọng vì một số truyền thống tin rằng sau 49 ngày vong linh có thể tái sinh vào cõi mới tùy nhân duyên. Tụng kinh và hồi hướng trong khoảng này được xem là cực kỳ hữu hiệu.
    • 7 ngày, 21, 100 ngày và giỗ: đều là các mốc để làm phúc, báo ân, và điều chỉnh nghiệp lực.
    • Ngày lễ lớn (Vu Lan, lễ cầu siêu tập trung): tập hợp nhiều công đức, năng lượng cộng đồng lớn hơn, nên có ý nghĩa lợi ích phát rộng.

    Lưu ý: những mốc này mang tính truyền thống và tâm lý; hiệu quả thực sự tùy vào tâm thành và hành động đi kèm. Không nên gắn việc “đủ ngày” với mê tín (ví dụ: nghĩ rằng nếu không làm đúng ngày thì sẽ bất lợi vĩnh viễn).


    5. Gia đình muốn tổ chức tụng kinh/ hồi hướng cho người mất — quy trình mẫu là gì? Ai nên làm, cần chuẩn bị gì?

    Trả lời (kịch bản cơ bản, có thể điều chỉnh):

    Chuẩn bị:

    • Liên hệ chùa hoặc tăng ni để mời chủ lễ.
    • Chuẩn bị bản kinh (Kinh Địa Tạng), pháp cụ (hương, hoa, trà, đèn), danh sách người cần hồi hướng (tên, ngày sinh, ngày mất).
    • Không gian trang nghiêm, âm thanh, chỗ ngồi.

    Trình tự gợi ý (2–4 giờ tùy quy mô):

    1. Khởi lễ (quy y, xướng pháp).
    2. Giới thiệu lý do, đọc tên người cần hồi hướng.
    3. Tụng Kinh Địa Tạng (toàn phẩm hoặc phẩm liên quan) — có thể xen quán, giải thích.
    4. Sám hối và niệm danh hiệu (Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát Ma Ha Tát) số lần phù hợp.
    5. Bố thí/ cúng dường Tam Bảo (tùy gia đình).
    6. Hồi hướng công đức (phát nguyện rõ ràng: nêu tên, mục tiêu).
    7. Kết lễ và hướng dẫn hậu sự (các việc thiện nên làm tiếp theo).

    Ai nên làm: Người thân, con cháu thường là người chủ trì; nếu chưa có kinh nghiệm, nên nhờ chư tăng ni hoặc người hiểu pháp hướng dẫn.


    6. Cần lưu ý gì để tránh mê tín, lợi dụng khi tổ chức tụng niệm, đặc biệt trong thương mại hóa tang lễ?

    Trả lời:
    Rất quan trọng. Những lưu ý thực tế:

    • Minh bạch tài chính: mọi đóng góp nên được ghi chép, công khai; tránh thu tiền vô căn cứ cho “mua phước”.
    • Tôn trọng gia đình: không lạm dụng cảm xúc gia đình tang quyến để kiếm lợi.
    • Tránh lời hứa tuyệt đối: không hứa rằng làm lễ này sẽ “chắc chắn” đưa người chết lên thiên đàng — tránh hù dọa để bán dịch vụ.
    • Kết hợp hành động thực tế: khuyên gia đình làm việc thiện (bố thí, giúp người nghèo) thay vì chỉ tiêu tiền cho nghi lễ hình thức.
    • Xin hướng dẫn chư tôn đức: để nghi thức trang nghiêm, đúng pháp, tránh biến tướng mê tín.

    Người hành trì cần giữ tâm tỉnh, tránh lợi dụng tôn giáo để trục lợi.


    7. Nếu người mất từng có sai phạm lớn, liệu tụng kinh/hồi hướng có giúp họ hết nghiệp nặng?

    Trả lời:
    Truyền thống Phật giáo dạy rằng nghiệp nặng có thể giảm nhẹ khi có nhân thiện xảy ra sau đó, nhưng không có “phương thuốc” tức thời xóa sạch mọi nghiệp. Thực tế:

    • Hồi hướng, sám hối, bố thí có thể tạo duyên tốt giúp vong tìm cơ hội tu chuyển.
    • Nếu vong chưa tỉnh ngộ, thì sự trợ giúp còn lệ thuộc duyên và nghiệp của họ — nghĩa là không phải luôn hiệu quả tức thì.
    • Ý nghĩa quan trọng là người sống chịu trách nhiệm sửa lỗi, làm phúc nhân danh người đã khuất để góp phần chuyển hóa duyên.

    Vì vậy, tụng niệm là một phần của quá trình chứ không phải phép màu loại trừ tất cả hậu quả nghiệp.


    8. Có bằng chứng thực tế nào cho thấy việc tụng kinh/hồi hướng thay đổi hành trạng của vong linh không?

    Trả lời:
    Đây là lĩnh vực thuộc tín ngưỡng; bằng chứng “khoa học” về tồn tại vong linh hay thay đổi sau khi chết chưa được chứng minh theo tiêu chuẩn học thuật hiện đại. Tuy nhiên:

    • Nhiều ghi chép kinh nghiệm trong truyền thống (lịch sử Phật giáo, lời kể từ các vị tôn túc) cho thấy gia đình tin rằng người mất “dưới tác động duyên lành” đã nhẹ nghiệp; nhưng đây là dạng bằng chứng chứng nghiệm tôn giáo.
    • Về mặt tâm lý và xã hội, thực hành tụng niệm giúp gia đình ổn định, giảm stress, cải thiện quan hệ, từ đó có lợi cho những người sống — điều này có tác dụng gián tiếp đối với di sản tinh thần của người mất.

    Kết luận: nếu xem xét theo tinh thần tôn giáo, tụng/hồi hướng là phương pháp hợp truyền thống; nếu theo khoa học, lợi ích chính xác thuộc về mặt tâm lý–xã hội.


    9. Người trẻ muốn tìm hiểu và thực hiện đúng — nên học gì, từ đâu bắt đầu?

    Trả lời:
    Gợi ý cho người muốn học hành đúng:

    1. Học bản dịch Kinh Địa Tạng chuẩn (từ chùa, viện Phật học) và đọc chú giải của tôn đức có uy tín.
    2. Học pháp hành cơ bản: niệm danh hiệu, sám hối, cách hồi hướng, bố thí.
    3. Tham dự pháp hội do chùa tổ chức, học hỏi kinh nghiệm thực tế.
    4. Nên tìm thầy/cô (tăng ni) để được hướng dẫn cách tụng, cách phát nguyện và hiểu ý nghĩa từng đoạn.
    5. Thực hành song hành với đạo đức đời thường: việc làm thiện, chăm sóc cha mẹ, giúp người là trọng yếu.

    Quan trọng nhất là tâm thành và trí tuệ — hiểu ý nghĩa để không mê tín.


    10. Bạn đọc có thể làm những hành động thực tế nào ngay bây giờ để thực hành tinh thần “lợi ích cả kẻ còn người mất”?

    Trả lời (gợi ý hành động cụ thể, dễ thực hiện):

    • Niệm 21–108 lần danh hiệu Địa Tạng hàng ngày (có thể 10–15 phút) với tâm hồi hướng cho người thân đã mất.
    • Làm một việc thiện nhân danh người quá cố (quyên góp cho quỹ từ thiện, giúp đỡ người nghèo).
    • Tổ chức hoặc tham gia một buổi tụng Kinh Địa Tạng ngắn (1–3 phẩm) với gia đình, kết hợp hồi hướng.
    • Thực hành sám hối và sửa đổi: nếu bạn có lỗi với người đã mất, làm lễ xin lỗi trong tâm và hành động đền bù nếu cần.
    • Duy trì thói quen tu nhỏ: thắp một nén hương, niệm một bài kệ sám hối, làm việc tử tế hàng ngày.

    Những hành động này vừa thực tế vừa có ý nghĩa tâm linh, không cần nhiều tiền của nhưng có sức chuyển hóa lớn.

     

Share with friends and family!
 

Loading ....

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *