Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Pháp Đăng
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Tịnh
Bài tựa Địa Tạng Bồ Tát
Chí Tâm Quy Mạng Lễ:
U Minh Giáo Chủ Bổn Tôn Ðịa Tạng Bồ tát Ma ha tát.
Lạy đức từ bi đại Giáo chủ!
“Ðịa” là dày chắc, “Tạng” chứa đủ.
Cõi nước phương Nam nổi mây thơm.
Rưới hương, rưới hoa, hoa vần vũ.
Mây xinh, mưa báu số không lường.
Lành tốt, trang nghiêm cảnh dị thường.
Người, trời bạch Phật: Nhơn gì thế?
Phật rằng: Ðịa Tạng đến Thiên đường!
Chư Phật ba đời đồng khen chuộng.
Mười phương Bồ tát chung tin tưởng.
Nay con sẵn có thiện nhơn duyên.
Ngợi khen Ðịa Tạng đức vô lượng:
Lòng từ do chứa hạnh lành.
Trải bao số kiếp độ sanh khỏi nàn.
Trong tay đã sẵn gậy vàng.
Dộng tan cửa ngục cứu toàn chúng sinh.
Tay cầm châu sáng tròn vành.
Hào quang soi khắp ba ngàn Ðại Thiên.
Diêm Vương trước điện chẳng hiền.
Ðài cao nghiệp cảnh soi liền tội căn.
Ðịa Tạng Bồ tát thượng nhơn.
Chứng minh công đức của dân Diêm Phù!
Ðại Bi, Ðại Nguyện, Ðại Thánh, Ðại Từ, Bổn Tôn Ðịa Tạng Bồ tát Ma ha tát. ( 3 lần)
Bài tán nguyện hương
Nguyện mây hương mầu này.
Khắp cùng mười phương cõi.
Cúng dường tất cả Phật.
Tôn pháp, các Bồ tát.
Vô biên chúng Thanh văn.
Và cả thảy Thánh Hiền.
Duyên khởi đài sáng chói.
Trùm đến vô biên cõi.
Xông khắp các chúng sinh.
Ðều phát Bồ đề tâm.
Xa lìa những nghiệp vọng.
Trọn nên đạo vô thượng.
Nam mô Hương cúng dường Bồ tát Ma ha tát. (3 Lần)
Bài văn phát nguyện
Lạy đấng Tam giới Tôn.
Quy mạng mười phương Phật.
Nay con phát nguyện rộng.
Thọ trì kinh Ðịa Tạng.
Trên đền bốn ơn nặng.
Dưới cứu khổ tam đồ.
Nếu có kẻ thấy nghe.
Ðều phát bồ đề tâm.
Hết một báo thân này.
Sanh qua cõi Cực Lạc.
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (3 lần)
Bài kệ khai kinh
Pháp vi diệu rất sâu vô lượng.
Trăm nghìn muôn ức kiếp khó gặp.
Nay con thấy nghe được thọ trì.
Nguyện hiểu nghĩa chơn thật của Phật.
Nam mô U Minh giáo chủ hoằng nguyện độ sanh:
Ðịa ngục vị không, thệ bất thành Phật.
Chúng sinh độ tận, phương chứng Bồ đề.
Ðại Bi, Ðại Nguyện, Ðại Thánh, Ðại Từ, Bổn Tôn Ðịa Tạng Bồ tát Ma ha tát.(03 lần)
Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện: 1. Phật Hiện Thần Thông
Ta nghe như thế này: Một thuở nọ, tại cung Trời Ðao Lợi, Ðức Phật vì Thánh Mẫu mà thuyết pháp:
Lúc đó, bất khả thuyết bất khả thuyết tất cả chư Phật và đại Bồ tát trong vô lượng thế giới ở mười phương đều đến hội họp. Rồi đồng khen ngợi rằng:
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni có thể ở trong đời ác ngũ trược mà hiện sức “đại trí huệ thần thông chẳng thể nghĩ bàn”, để điều phục chúng sinh cang cường làm cho chúng nó rõ “pháp khổ pháp vui”. Khen xong, chư Phật đều sai thị giả kính thăm đức Thế Tôn.
Bấy giờ, đức Như Lai mỉm cười phóng ra trăm nghìn vừng mây sáng rỡ lớn. Như là: Vừng mây sáng rỡ đầy đủ, vừng mây sáng rỡ đại từ bi. Vừng mây sáng rỡ đại trí huệ, vừng mây sáng rỡ đại Bát nhã. Vừng mây sáng rỡ đại tam muội, vừng mây sáng rỡ đại kiết tường. Vừng mây sáng rỡ đại phước đức, vừng mây sáng rỡ đại công đức. Vừng mây sáng rỡ đại quy y, vừng mây sáng rỡ đại tán thán… Ðức Phật phóng ra bất khả thuyết vừng mây sáng rỡ như thế rồi lại phát ra các thứ tiếng vi diệu.
Như là: Tiếng Bố thí độ, tiếng Trì giới độ, tiếng Nhẫn nhục độ, tiếng Tinh tấn độ. Tiếng Thiền định độ, tiếng Bát nhã độ, tiếng Từ bi, tiếng Hỷ xả, tiếng Giải thoát, tiếng Vô lậu. Tiếng Trí huệ, tiếng Sư tử hống, tiếng Ðại Sư tử hống, tiếng Mây sấm, tiếng Mây sấm lớn.
Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện: 2. Trời, Rồng… Hội Họp.
Khi đức Phật phát ra bất khả thuyết bất khả thuyết tiếng vi diệu như thế xong. Thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỷ, Thần ở trong cõi Ta bà và cõi nước phương khác cũng đến hội họp nơi cung Trời Ðao Lợi.
Như là: Trời Tứ Thiên Vương, trời Ðao Lợi, trời Tu diệm Ma, trời Ðâu Suất Ðà. Trời Hóa Lạc, trời Tha Hóa Tự Tại, trời Phạm Chúng, trời Phạm Phụ, trời Ðại Phạm. Trời Thiểu Quang, trời Vô Lượng Quang, trời Quang Âm, trời Thiểu Tịnh, trời Vô Lượng Tịnh. Trời Biến Tịnh, trời Phước Sanh, trời Phước Ái, trời Quảng Quả, trời Nghiêm Sức. Trời Vô Lượng Nghiêm Sức, trời Nghiêm Sức Quả Thiệt, trời Vô Tưởng, trời Vô Phiền, trời Vô Nhiệt. Trời Thiện Kiến, trời Thiện Hiện, trời Sắc Cứu Cánh, trời Ma Hê Thủ La. Cho đến trời Phi Tưởng, Phi Phi Tưởng Xứ. Tất cả Thiên chúng, Long chúng, cùng các chúng Quỷ, Thần đều đến hội họp.
*
Lại có những vị Thần ở cõi Ta bà cùng cõi nước phương khác như: Thần biển, Thần sông. Thần rạch, Thần cây, Thần núi, Thần đất, Thần sông chằm, Thần lúa mạ. Thần chủ ngày, Thần chủ đêm, Thần hư không, Thần trên trời, Thần chủ ăn uống, Thần cây cỏ… Các vị thần như thế đều đến hội họp.
Lại có những Ðại Quỷ Vương ở cõi Ta bà cùng cõi nước phương khác, như: Ác Mục Quỷ Vương, Ðạm Huyết Quỷ Vương, Ðạm Tinh Khí Quỷ Vương. Ðạm Thai Noãn Quỷ Vương, Hành Bịnh Quỷ Vương, Nhiếp Ðộc Quỷ Vương, Từ Tâm Quỷ Vương. Phước Lợi Quỷ Vương, Ðại Ái Kính Quỷ Vương… Các Quỷ Vương như thế đều đến hội họp.
Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện: 3. Ðức Phật Phát Khởi.
Bấy giờ đức Thích Ca Mâu Ni Phật bảo Ngài Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương tử đại Bồ tát rằng: “Ông xem coi tất cả chư Phật, Bồ tát và Trời, Rồng, Quỷ, Thần đó. Ở trong thế giới này cùng thế giới khác, ở trong quốc độ này cùng quốc độ khác. Nay đều đến hội họp tại cung Trời Ðao Lợi như thế, ông có biết số bao nhiêu chăng?”.
Ngài Văn Thù Sư Lợi bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! nếu dùng thần lực của con để tính đếm trong nghìn kiếp cũng không biết là số bao nhiêu!”
*
Ðức Phật bảo Ngài Văn Thù Sư Lợi rằng: “Ðến Ta dùng Phật nhãn xem hãy còn không đếm xiết! Số Thánh, phàm này đều của Ngài Ðịa Tạng Bồ tát từ thuở kiếp lâu xa đến nay, hoặc đã độ, đương độ, chưa độ. Hoặc đã thành tựu, đương thành tựu, chưa thành tựu”.
Ngài Văn Thù Sư Lợi bạch đức Phật rằng: “Từ thuở lâu xa về trước con đã tu căn lành chứng đặng trí vô ngại, nghe lời đức Phật nói đó thời tin nhận liền. Còn hàng tiểu quả Thanh văn, Trời, Rồng tám bộ chúng và những chúng sinh trong đời sau. Dầu nghe lời thành thật của Như Lai, nhưng chắc là sanh lòng nghi ngờ, dầu cho có lạy vâng đi nữa cũng chưa khỏi hủy báng. Cúi mong đức Thế Tôn nói rõ nhơn địa của Ngài Ðịa Tạng Bồ Tát: Ngài tu hạnh gì, lập nguyện gì mà thành tựu được sự không thể nghĩ bàn như thế?”
*
Ðức Phật bảo Ngài Văn Thù Sư Lợi rằng: “Ví như bao nhiêu cỏ, cây, lùm, rừng, lúa, mè, tre, lau, đá, núi, bụi bặm trong cõi tam thiên đại thiên. Cứ một vật làm một sông Hằng, rồi cứ số cát trong mỗi sông Hằng, một hột cát làm một cõi nước, rồi trong một cõi nước cứ một hột bụi nhỏ làm một kiếp, rồi bao nhiêu số bụi nhỏ chứa trong một kiếp đều đem làm kiếp cả. Từ lúc Ngài Ðịa Tạng Bồ tát chứng quả vị thập địa Bồ tát đến nay nghìn lần lâu hơn số kiếp tỉ dụ ở trên. Huống là những thuở Ngài Ðịa Tạng Bồ tát còn ở bực Thanh văn và Bích Chi Phật!
Này Văn Thù Sư Lợi! Oai thần thệ nguyện của Bồ tát đó không thể nghĩ bàn đến được. Về đời sau, nếu có trang thiện nam, người thiện nữ nào nghe danh tự của Ðịa Tạng Bồ tát. Hoặc khen ngợi, hoặc chiêm ngưỡng vái lạy, hoặc xưng danh hiệu, hoặc cúng dường. Nhẫn đến vẽ, khắc, đắp, sơn hình tượng của Ðịa Tạng Bồ tát. Thời người đó sẽ được một trăm lần sanh lên cõi trời Ðao Lợi, vĩnh viễn chẳng còn bị sa đọa vào chốn ác đạo.
Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện: 4. Trưởng giả Tử Phát Nguyện.
Này Văn Thù Sư Lợi! Trải qua bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp lâu xa về trước, tiền thân của Ngài Ðịa Tạng Bồ tát làm một vị Trưởng giả tử. Lúc đó, trong đời có đức Phật hiệu là: Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai. Trưởng giả tử thấy đức Phật tướng mạo tốt đẹp nghìn phước trang nghiêm, mới bạch hỏi đức Phật tu hạnh nguyện gì mà đặng tốt đẹp như thế?
Khi ấy, đức Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai bảo Trưởng giả tử rằng: “Muốn chứng được thân tướng tốt đẹp này, cần phải trải qua trong một thời gian lâu xa độ thoát tất cả chúng sinh bị khốn khổ”.
Này Văn Thù Sư Lợi! Trưởng giả tử nghe xong liền phát nguyện rằng: “Từ nay đến tột số chẳng thể kể xiết ở đời sau, tôi vì những chúng sinh tội khổ trong sáu đường mà giảng bày nhiều phương tiện làm cho chúng đó được giải thoát hết cả, rồi tự thân tôi mới chứng thành Phật Ðạo”.
Bởi ở trước đức Phật Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai, Ngài lập nguyện rộng đó. Nên đến nay đã trải qua trăm nghìn muôn ức vô số bất khả thuyết kiếp, mà Ngài vẫn còn làm vị Bồ tát!
Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện: 5. Bà La Môn Nữ Cứu Mẹ.
Lại thuở bất khả tư nghị vô số kiếp về trước, lúc đó có đức Phật hiệu là: Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai. Ðức Phật ấy thọ đến bốn trăm nghìn muôn ức vô số kiếp. Trong thời tượng pháp, có một người con gái dòng Bà La Môn. Người này nhiều đời chứa phước sâu dày, mọi người đều kính nể, khi đi đứng, lúc nằm ngồi, chư Thiên thường theo hộ vệ. Bà mẹ của người mê tín tà đạo, thường khinh khi ngôi Tam Bảo.
Thuở ấy, mặc dầu Thánh Nữ đem nhiều lời phương tiện khuyên nhủ bà mẹ người, hầu làm cho bà mẹ người sanh chánh kiến, nhưng mà bà mẹ người chưa tin hẳn. Chẳng bao lâu bà ấy chết thần hồn sa đọa vào Vô Gián địa ngục.
Lúc đó, Thánh Nữ biết rằng người mẹ khi còn sống không tin nhơn quả, liệu chắc phải theo nghiệp quấy mà sanh vào đường ác. Thánh Nữ bèn bán nhà, đất, sắm nhiều hương hoa cùng những đồ lễ cúng, rồi đem cúng dường tại các chùa tháp thờ đức Phật Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương. Trong một ngôi chùa kia thấy hình tượng của đức Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương đắp vẽ oai dung đủ cách tôn nghiêm.
*
Thánh Nữ chiêm bái tượng của đức Phật lại càng sanh lòng kính ngưỡng, tự nghĩ thầm rằng: “Ðức Phật là đấng Ðại Giác đủ tất cả trí huệ. Nếu đức Phật còn trụ ở đời, thì khi mẹ tôi khuất, tôi đến bạch hỏi Phật, chắc thế nào cũng rõ mẹ tôi sanh vào chốn nào”.
Nghĩ đến đó, Thánh Nữ buồn tủi rơi lệ chăm nhìn tượng Như Lai mà lòng quyến luyến mãi. Bỗng nghe trên hư không có tiếng bảo rằng: “Thánh Nữ đương khóc kia, thôi đừng có bi ai quá lắm! Nay ta sẽ bảo cho ngươi biết chỗ của mẹ ngươi”.
Thánh Nữ chắp tay hướng lên hư không mà vái rằng: “Ðức thần nào đó mà giải bớt lòng sầu lo của tôi như thế? Từ khi mẹ tôi mất đến nay, tôi thương nhớ ngày đêm. Không biết đâu để hỏi cho rõ mẹ tôi thác sanh vào chốn nào?”
Trên hư không lại có tiếng bảo Thánh Nữ rằng: “Ta là đức Phật quá khứ Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai mà ngươi đương chiêm bái đó. Thấy ngươi thương nhớ mẹ trội hơn thường tình của chúng sinh, nên ta đến chỉ bảo”.
*
Thánh Nữ nghe nói xong liền té xỉu xuống, tay chân mình mẩy đều bị tổn thương. Những người đứng bên vội vàng đỡ dậy, một lát sau Thánh Nữ mới tỉnh lại rồi bạch cùng trên hư không rằng: “Cúi xin đức Phật xót thương bảo ngay cho rõ chỗ thác sanh của mẹ con, nay thân tâm của con sắp chết mất!”.
Ðức Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai bảo Thánh Nữ rằng: “Cúng dường xong, ngươi mau mau trở về nhà. Rồi ngồi ngay thẳng nghĩ tưởng danh hiệu của Ta, thời ngươi sẽ biết chỗ thác sanh của mẹ ngươi”.
Lễ Phật xong, Thánh Nữ liền trở về nhà. Vì thương nhớ mẹ, nên Thánh Nữ ngồi ngay thẳng niệm danh hiệu của Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai trải suốt một ngày một đêm. Bỗng thấy thân mình đến một bờ biển kia. Nước trong biển đó sôi sùng sục, có rất nhiều thú dữ thân thể toàn bằng sắt bay nhảy trên mặt biển, chạy rảo bên này, xua đuổi bên kia.
Thấy những trai cùng gái số nhiều đến nghìn muôn thoạt chìm thoạt nổi ở trong biển, bị các thú dữ giành nhau ăn thịt.
*
Lại thấy quỷ Dạ Xoa hình thù đều lạ lùng: Hoặc nhiều tay, nhiều mắt, nhiều chân, nhiều đầu…Răng nanh chĩa ra ngoài miệng bén nhọn dường gươm, lùa những người tội gần thú dữ. Rồi quỷ lại chụp bắt người tội, túm quắp đầu chân người tội lại, hình trạng muôn thứ chẳng dám nhìn lâu. Khi ấy, Thánh Nữ nhờ nương sức niệm Phật nên tự nhiên không kinh sợ.
Có một vị Quỷ Vương tên là Vô Ðộc, đến cúi đầu nghinh tiếp, hỏi Thánh Nữ rằng: “Hay thay Bồ tát! Ngài có duyên sự gì đến chốn này?”.
Thánh Nữ hỏi Quỷ Vương rằng: “Ðây là chốn nào?”
Quỷ Vương Vô Ðộc đáp rằng: “Ðây là từng biển thứ nhất ở phía Tây núi đại Thiết Vi”.
Thánh Nữ hỏi rằng: “Tôi nghe trong núi Thiết Vi có địa ngục, việc ấy có thiệt như thế chăng?”.
Vô Ðộc đáp rằng: “Thiệt có địa ngục”.
Thánh Nữ hỏi rằng: “Nay tôi làm sao để được đến chốn địa ngục đó?”.
Vô Ðộc đáp rằng: “Nếu không phải sức oai thần cần phải do nghiệp lực. Ngoài hai điều này ra ắt không bao giờ có thể đến đó được”.
Thánh Nữ lại hỏi: “Duyên cớ vì sao mà nước trong biển này sôi sùng sục như thế, và có những người tội cùng với các thú dữ?”.
*
Vô Ðộc đáp rằng: “Những người tội trong biển này là những kẻ tạo ác ở cõi Diêm Phù Ðề mới chết, trong khoảng bốn mươi chín ngày không người kế tự để làm công đức hầu cứu vớt khổ nạn cho. Lúc sống, kẻ đó lại không làm được nhơn lành nào cả.
Vì thế nên cứ theo nghiệp ác của họ đã gây tạo mà cảm lấy báo khổ ở địa ngục, tự nhiên họ phải lội qua biển này.
Cách biển này mười muôn do tuần về phía Ðông lại có một cái biển, những sự thống khổ trong biển đó sắp bội hơn biển này.
Phía Ðông của biển đó lại có một cái biển nữa, sự thống khổ trong đó càng trội hơn.
Ðó đều là do những nghiệp nhơn xấu xa của ba nghiệp mà cảm vời ra, đồng gọi là biển nghiệp, chính là ba cái biển này vậy”.
Thánh Nữ lại hỏi Quỷ Vương Vô Ðộc rằng: “Ðịa ngục ở đâu?”
Vô Ðộc đáp rằng: “Trong ba cái biển đó đều là địa ngục, nhiều đến số trăm nghìn, mỗi ngục đều khác nhau. Về địa ngục lớn thời có 18 chỗ, bực kế đó có 500 chỗ đủ không lường sự khổ sở, bực kế nữa có đến nghìn trăm cũng không lường sự thống khổ.
*
Thánh Nữ lại hỏi đại Quỷ Vương rằng: “Thân mẫu của tôi mới khuất gần đây, không rõ thần hồn của người phải sa vào chốn nào?”
Quỷ Vương hỏi Thánh Nữ rằng: “Thân Mẫu của Bồ tát khi còn sống quen làm những nghiệp gì?”
Thánh Nữ đáp rằng: “Thân mẫu của tôi mê tín tà đạo khinh chê ngôi Tam Bảo, hoặc có lúc tạm thời tin chánh pháp, xong rồi chẳng kính. Dầu khuất không bao lâu, mà chưa rõ đọa lạc vào đâu?”
Vô Ðộc hỏi rằng: “Thân Mẫu của Bồ tát tên họ là gì?”
Thánh Nữ đáp rằng: “Thân phụ và thân mẫu của tôi đều dòng dõi Bà La Môn. Thân phụ tôi hiệu là Thi La Thiện Kiến. Thân mẫu tôi hiệu là Duyệt Ðế Lợi”.
Vô Ðộc chắp tay thưa Thánh Nữ rằng: “Xin Thánh Nữ hãy về, chớ đem lòng thương nhớ buồn rầu quá lắm nữa. Tội nữ Duyệt Ðế Lợi được sanh lên cõi trời đến nay đã ba ngày rồi.
Nghe nói nhờ con gái của người có lòng hiếu thuận, vì mẹ mà sắm sửa lễ vật, tu tạo phước lành, cúng dường chùa tháp, thờ đức Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai. Chẳng phải chỉ riêng thân mẫu của Bồ tát đặng thoát khỏi địa ngục, mà ngày đó, những tội nhơn Vô Gián cũng đều được vui vẻ, đồng đặng thác sanh cả”.
*
Nói xong, Quỷ Vương chắp tay chào Thánh Nữ mà cáo lui.
Bấy giờ, Thánh Nữ dường chiêm bao chợt thức tỉnh, rõ biết việc đó rồi, bèn đối trước tháp tượng của đức Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai mà phát thệ nguyện rộng lớn rằng:
“Tôi nguyện từ nay nhẫn đến đời vị lai những chúng sinh mắc phải tội khổ, thì tôi lập ra nhiều phương chước làm cho chúng đó được giải thoát”.
Ðức Phật bảo Ngài Văn Thù Sư Lợi rằng: “Quỷ Vương Vô Ðộc trước đó nay chính ông Tài Thủ Bồ tát. Còn Thánh Nữ Bà La Môn đó nay là Ðịa Tạng Bồ tát vậy”.
Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện – Thần thông trên cung trời Đao Lợi – Phẩm thứ nhất- 10 Câu Hỏi Thường Gặp Nhất Về Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện – Phẩm thứ nhất – Thần thông trên cung trời Đao Lợi Và Câu Trả Lời — FAQ
1. Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện là gì? Phẩm “Thần thông trên cung trời Đao Lợi” nằm ở vị trí nào trong toàn bộ kinh?
Trả lời:
Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện (thường gọi tắt là Kinh Địa Tạng) là một bản kinh Mahāyāna phổ biến ở Đông Á (Trung Hoa, Việt Nam, Hàn Quốc, Nhật Bản), nhấn mạnh chí nguyện cứu độ chúng sinh trong cõi u minh (địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh) và tinh thần hiếu đạo. Tên gọi “Bổn Nguyện” chỉ những lời thệ nguyện căn bản của Bồ Tát Địa Tạng: nguyện lên chí thành cứu độ hết thảy chúng sanh, không chứng quả Phật cho đến khi mọi địa ngục trống rỗng.Phẩm thứ nhất với đề mục thường dịch là “Thần thông trên cung trời Đao Lợi” là mở đầu kinh — ghi lại bối cảnh pháp hội (thường là Tôn giả hỏi và Phật cùng các vị trời, Bồ Tát hội chúng), mô tả nơi pháp âm vang động trong cung trời Đao Lợi (Trayastriṃśa) và trình bày những hình ảnh, cảnh tượng minh họa năng lực thần thông, mục đích là làm tiền đề cho lời dạy về nguyện lực Địa Tạng, về nhân quả và phương pháp cứu độ. Phẩm này giúp người đọc hiểu ngay từ đầu tính chất trọng tâm: cứu khổ, hiếu đạo và lòng từ bi hành động.
2. Địa Tạng Bồ Tát là ai? Hình tượng, vai trò và vị trí trong Phật giáo như thế nào?
Trả lời:
Địa Tạng (Skt. Kṣitigarbha) là một vị Bồ Tát nổi bật trong truyền thống Đại thừa, được mô tả là vị Bồ Tát có lòng từ bi sâu dày chuyên cứu khổ chúng sinh nơi cõi tối — đặc biệt là những chúng sinh bị đọa trong địa ngục và những cõi khổ khác. Các đặc điểm thường thấy:- Chí nguyện: Nguyện xuống cứu độ chúng sanh trong địa ngục, trì hoãn việc tự chứng Phật quả cho đến khi không còn ai chịu khổ nữa.
- Biểu tượng: Thường được mô tả trong y tăng (mang hình thái tu sĩ), tay cầm khánh khánh (khóa khánh / khakkhara) để đánh thức, tay kia cầm ngọc minh châu (cầu nguyện, soi sáng), nét mặt hiền từ.
- Vai trò: Người bảo hộ cho người chết, người hành hương, gia đình hiếu đạo; Địa Tạng thường xuất hiện trong nghi lễ cầu siêu, tụng kinh hồi hướng cho người quá cố.
Vị trí của Địa Tạng trong Phật giáo là biểu tượng của từ bi hành động, của bổn nguyện không bỏ rơi, và của trách nhiệm cứu giúp những số phận bị lãng quên.
3. Phẩm “Thần thông trên cung trời Đao Lợi” kể chuyện gì? Nên hiểu nội dung đó thế nào?
Trả lời:
Phẩm mở đầu mô tả cảnh pháp hội và những hiện tượng thần thông diễn ra tại cõi trời Đao Lợi — nơi có chư thiên và các vị Bồ Tát, Tỳ-kheo, hàng đệ tử hiện diện để lắng nghe Phật thuyết. Những điểm chính của phẩm:- Bối cảnh pháp hội: Phật thuyết giảng, thiên chúng hội họp, âm thanh pháp vang khắp các cõi — làm nền cho giáo pháp Địa Tạng.
- Thần thông: Những thần lực, phép tắc huyền diệu được mô tả nhằm biểu lộ quyền năng siêu thế nhưng không phải để khoe sức mạnh; thần thông được dùng như phương tiện để chuyển hóa lòng người, minh chứng nghiệp nhân quả và tính chân thật của lời thuyết.
- Mục đích: Gợi ý cho chúng sinh thấy hậu quả của nghiệp; mở đầu cho lời dạy cốt lõi của Địa Tạng về cứu độ người chết, lễ bái, hồi hướng công đức, và tinh thần hiếu đạo.
Cách hiểu: Phẩm này không chủ yếu nhằm mô tả “biểu diễn phép thuật” mà là phương tiện tôn giáo: dùng hình tượng thần thông để khiến tâm người nghe thức tỉnh, kính ngưỡng, và tin theo đạo lý nhân quả — từ đó phát sinh hạnh hành động thiện.
4. Giáo lý cốt lõi từ phẩm này là gì? Những điểm đạo lý nào cần đặc biệt lưu ý?
Trả lời:
Từ phẩm mở đầu có thể rút ra các giáo lý nền tảng sau:- Nghiệp và quả báo (karma): Hành động thiện ác dẫn tới quả tương ứng; hiểu được ở mức độ sâu sắc sẽ khuyến khích hành thiện, tránh ác.
- Từ bi cứu khổ: Địa Tạng là hình mẫu của lòng từ bi thiết thực — cứu người khỏi đau khổ ngay trong hoàn cảnh khổ nhất.
- Hiếu đạo: Kinh thường nhấn mạnh nghi lễ cầu siêu, báo ân, hiếu dưỡng cha mẹ; quan hệ gia đình và trách nhiệm đạo đức được xem là nền tảng đạo Phật ở tầng ứng dụng.
- Quy y, sám hối và hồi hướng: Hành sám, tụng kinh, bố thí, hồi hướng công đức cho người quá cố — là phương pháp chuyển hóa nghiệp.
- Pháp phương tiện (upāya): Thần thông, hình tượng và nghi lễ là phương tiện để dẫn dắt tâm người, chứ không phải mục đích cuối cùng.
Những điểm trên là kim chỉ nam khi đọc phẩm này: học thuyết không chỉ là tri giác mà phải được chuyển hoá thành hành động từ ái, hiếu kính và sám hối.
5. Nghe, đọc hoặc tụng Kinh Địa Tạng (Phẩm này) có công đức gì? Có nên áp dụng trong tang lễ và nghi lễ cầu siêu không?
Trả lời:
Theo truyền thống Phật giáo Đại thừa tại Đông Á, nghe, đọc, tụng Kinh Địa Tạng đem lại nhiều công đức được ghi nhận trong văn hóa tôn giáo:- Hộ niệm cho người quá cố: Giúp người vừa mất tinh thần an ổn, giảm nghiệp khổ; cộng đồng tin rằng hồi hướng công đức có thể giúp người chết siêu thoát, thoát khổ ngạ quỷ, địa ngục.
- Giúp người sống chuyển hóa: Người tụng niệm hiểu sâu nhân quả, tăng lòng từ bi và hiếu kính — sống có trách nhiệm hơn.
- Tạo công đức tập thể: Tụng chung (pháp hội) có hiệu lực lớn hơn vì sức mạnh cộng đồng và tâm chân thành tập hợp.
- An tâm và thanh tịnh: Nghe kinh giúp người nghe giảm lo lắng, tăng đạo tâm và trí tuệ.
Về nơi ứng dụng: Kinh Địa Tạng thường được sử dụng rộng rãi trong tang lễ, cầu siêu định kỳ (49 ngày, 100 ngày, giỗ), và các khóa tu hồi hướng. Tuy nhiên, điều quan trọng là tâm chân thành, hiểu biết giáo lý và hành động thiện mới làm cho việc tụng niệm có kết quả thực sự — chứ không phải chỉ là hình thức.
6. Làm sao tụng hoặc đọc phẩm “Thần thông trên cung trời Đao Lợi” đúng nghi thức? Cần lưu ý gì về hành xử, số lần, và cách hồi hướng?
Trả lời:
Cách tụng có thể khác nhau tùy truyền thống chùa, nhưng nguyên tắc chung:- Chuẩn bị: Không gian sạch sẽ, trang nghiêm; mâm lễ (trà, hoa, đèn, hương) nếu làm pháp hội; người tụng nên tắm rửa gọn gàng, quần áo trang nhã.
- Tư thế: Ngồi thẳng, an tĩnh; có thể đứng hoặc đi vòng trong những nghi lễ đặc biệt.
- Chuẩn bị tâm: Trước khi tụng, nên khởi tâm bố thí, sám hối và phát nguyện hồi hướng.
- Số lần: Không có con số bắt buộc; phổ biến là tụng theo trọn bộ kinh một lần, hoặc lặp 7/21/49/100 lần theo nghi thức cầu siêu. Nhiều nơi tổ chức tụng kéo dài 3, 7, 9 ngày.
- Kết thúc và hồi hướng: Sau khi tụng, thực hiện lễ hồi hướng công đức (dành công đức cho người quá cố, cho hết thảy chúng sinh). Hồi hướng nói rõ mục tiêu: lợi lạc cho ai, mong họ thoát khổ, sinh về cõi lành, v.v.
- Lưu ý: Tụng kinh cần kết hợp thực hành đạo đức (bố thí, giữ giới, giúp người) để không trở thành hình thức suông.
Nếu lần đầu hoặc thực hiện trong nghi thức lớn (cầu siêu, tang lễ), nên nhờ chư Tăng ni hướng dẫn để đúng nghi thức và an toàn tâm linh.
7. Kinh này có “thần chú” hay “mantra” đặc biệt nào không? Nên niệm câu gì để kết nối với Địa Tạng Bồ Tát?
Trả lời:
Trong thực hành đại chúng, câu niệm thỉnh thường gặp là:“Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát Ma Ha Tát.”
Đây là một câu kệ đơn giản, dễ nhớ, dùng để tôn kính, khởi tâm quy y và nhắc nhở bản nguyện cứu khổ của Địa Tạng. Nhiều đạo tràng dùng câu này như một phương pháp “niệm danh hiệu” để an tĩnh tâm.
Về các thần chú dạng Sanskrit, trong một số hệ phái Mật tông hay nghi lễ nghiêm mật có nối liền với Địa Tạng, có những biến thể mantra sâu hơn, nhưng việc truyền và niệm mantra theo đúng nghi thức cần được truyền thụ bởi thầy có thẩm quyền. Nếu bạn quan tâm mantra bằng Sanskrit, nên học trực tiếp với vị thầy hoặc chùa có truyền thống Mật tông để tránh hiểu sai và sử dụng không phù hợp.
8. Nguồn gốc lịch sử của Kinh Địa Tạng ra sao? Có phải kinh cổ xưa nguyên thủy thời Phật?
Trả lời:
Kinh Địa Tạng hiện tồn ở dạng chữ Hán, rất phổ biến ở Đông Á. Về nguồn gốc học thuật, các học giả Phật học có ý kiến khác nhau: một số cho rằng bản kinh có nguồn gốc Đại thừa được truyền tụng và biên soạn, sau đó dịch sang Hán ngữ; một số khác đặt kinh trong bối cảnh văn hóa Đông Á với nhiều chỉnh lý nhằm phục vụ đạo đức hiếu đạo và nghi lễ cầu siêu.Điều quan trọng với người tu hành là nội dung giáo hóa: Kinh trình bày các phương cách cứu độ, nhắc nhở về nhân quả và hiếu kính — giá trị ấy được cộng đồng Phật tử Đông Á tiếp nhận và thực hành sâu rộng. Nếu bạn quan tâm khảo cứu học thuật về thời điểm, dịch giả, và bản gốc Sanskrit (nếu có), có thể tham khảo các công trình nghiên cứu Phật học chuyên sâu hoặc hỏi các viện nghiên cứu Phật học.
9. Làm sao tiếp cận phẩm này theo góc nhìn thiền và hiện đại (không chỉ là nghi lễ)?
Trả lời:
Đọc Kinh Địa Tạng không chỉ để làm lễ mà còn có thể là vật liệu tu tập nội quán:- Địa ngục là ẩn dụ cho sự đau khổ nội tại: Những “địa ngục” chúng ta gặp là sân hận, tham lam, si mê, mặc cảm, sợ hãi — khi chuyển hóa những tâm trạng này, “địa ngục” bên trong giảm bớt.
- Địa Tạng là hình tượng của ý chí cứu độ trong chính mình: Người tu có thể học tính bền bỉ, trách nhiệm và lòng từ bi qua hành vi hằng ngày: giúp đỡ kẻ đau khổ, nuôi dưỡng từ tâm.
- Hồi hướng công đức có thể hiểu là hành động pháp tạo năng lượng tích cực — khi bạn phục thiện, bạn tạo điều kiện cho xã hội được an lạc.
- Thực hành thiền quán trên tâm hiếu: quán tưởng cha mẹ, tổ tiên, đồng loại để nuôi dưỡng lòng hiếu kính và trách nhiệm đạo đức.
Như vậy, phẩm này vừa phù hợp cho nghi lễ, vừa giàu tư liệu cho thực hành thiền định và chuyển hóa nội tâm trong đời sống hiện đại.
10. Tôi muốn học tụng và tổ chức pháp hội tụng Kinh Địa Tạng (Phẩm thứ nhất). Bắt đầu từ đâu và cần lưu ý điều gì?
Trả lời:
Bước khởi đầu hợp lý:- Học bản dịch chính xác: Tìm bản dịch tiếng Việt chuẩn, do các chư Tăng Ni hoặc học giả Phật học uy tín hiệu đính.
- Xin chỉ dẫn từ chùa hoặc vị thầy: Nhất là khi tổ chức pháp hội, nên phối hợp với chư Tăng Ni để đúng nghi thức và có người hướng dẫn.
- Luyện tụng: Bắt đầu với phần mở đầu/phẩm 1 từng đoạn; học đọc rõ, phát âm dễ hiểu; sau đó mới tiến tới tụng oai nghi chậm rãi.
- Chuẩn bị tâm: Trước khi làm pháp hội, khởi tâm bố thí, sám hối; mời quý vị tham dự và giải thích ý nghĩa công đức nhằm khuyến thiện.
- Ghi chú thực tế: Chuẩn bị danh sách người cần hồi hướng (tên người quá cố), đồ lễ cơ bản, âm thanh (máy), phân công người đọc, an toàn điện và trật tự.
Lưu ý đạo đức: Pháp hội tụng kinh không phải là “mua” phúc; đó là hoạt động tâm linh cộng đồng — cần minh bạch, không lợi dụng cảm xúc gia đình tang quyến, và luôn liên hệ chư Tăng Ni để tổ chức trang nghiêm, đúng luân lý.