Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Pháp Đăng
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Tịnh
Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện: 1. Phật Phóng Quang Dặn Bảo
Lúc đó khắp thân của Thế Tôn phóng ra ánh sáng lớn soi khắp đến trăm nghìn muôn ức Hằng hà sa cõi nước của chư Phật. Trong ánh sáng đó vang ra tiếng lớn bảo khắp các cõi nước của chư Phật rằng:
“Tất cả hàng đại Bồ tát và Trời, Rồng, Quỷ, Thần v.v… lóng nghe hôm nay Ta khen ngợi rao bày những sự của Ngài Ðịa Tạng Bồ tát ở trong mười phương thế giới. Hiện ra sức từ bi oai thần không thể nghĩ bàn, để cứu giúp tất cả tội khổ chúng sinh.
Sau khi ta diệt độ, thời hàng Bồ tát Ðại Sĩ các ông cùng với Trời, Rồng, Quỷ, Thần v.v… nên dùng nhiều phương chước để giữ gìn kinh này. Làm cho tất cả mọi loài chúng sinh đều khỏi tất cả sự khổ, mà chứng cảnh vui Niết Bàn.”
Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện: 2. Phổ Quảng Thưa Thỉnh
Nói lời ấy xong, trong pháp hội có một vị Bồ tát tên là Phổ Quảng cung kính chắp tay mà bạch cùng Ðức Phật rằng: “Nay con nghe đức Thế Tôn ngợi khen Ngài Ðịa Tạng Bồ tát có đức oai thần rộng lớn không thể nghĩ bàn như thế. Trông mong đức Như Lai lại vì những chúng sinh trong thời mạt pháp sau này, mà tuyên nói các sự nhơn quả của Ngài Ðịa Tạng Bồ tát làm lợi ích cho hàng Trời, Người. Làm cho hàng Trời, Rồng, bát bộ và chúng sinh trong đời sau kính vâng lời của Ðức Phật”.
Bấy giờ, đức Thế Tôn, bảo Ngài Phổ Quảng Bồ tát cùng trong tứ chúng rằng: “Lóng nghe! lóng nghe! Ta sẽ vì các ông nói lược về những sự phước đức của Ngài Ðịa Tạng Bồ tát làm lợi ích cho người cùng Trời”.
Ngài Phổ Quảng bạch Phật rằng “Vâng! Bạch đức Thế Tôn! Chúng con xin ham muốn nghe”.
Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện: 3. Phật Dạy Sự Lợi Ích
Ðức Phật bảo Ngài Phổ Quảng Bồ tát: “Trong đời sau, như có người thiện nam, kẻ thiện nữ nào nghe được danh hiệu của Ðịa Tạng đại Bồ tát. Hoặc là chắp tay, hoặc là ngợi khen. Hoặc là đảnh lễ, hoặc là luyến mộ, người đó sẽ qua khỏi tội khổ trong ba mươi kiếp.
Này Phổ Quảng! Như có kẻ thiện nam hay người thiện nữ nào hoặc là vẽ hình tượng của Ngài Ðịa Tạng Bồ tát rồi chừng một lần chiêm ngưỡng, một lần đảnh lễ. Người đó sẽ được sanh lên cõi trời Ðao Lợi một trăm lần, không còn phải bị sa đọa vào ác đạo nữa.
Ví dầu ngày kia phước trời đã hết mà sanh xuống nhơn gian, cũng vẫn làm vị Quốc Vương, không hề mất sự lợi lớn.”
Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện: 4. Khỏi Nữ Thân
Như có người nữ nào nhàm chán thân gái, hết lòng cúng dường tượng vẽ của Ðịa Tạng Bồ tát, và những tượng cất bằng đất, đá, keo, sơn, đồng, sắt, v.v… Ngày ngày thường đem hoa, hương, đồ ăn, đồ uống, y phục, gấm lụa, tràng phan, tiền bạc, vật báu, v.v… cúng dường như thế mãi không thôi.
Người thiện nữ mãn một thân gái hiện tại, thời đến trăm nghìn muôn kiếp còn không sanh vào cõi nước có người nữ, huống nữa là thọ thân gái! Trừ khi vì lòng từ cần phải thọ thân gái để độ chúng sinh. Nương nơi phước cúng dường Ðịa Tạng Bồ tát và sức công đức đó, trong trăm nghìn muôn kiếp chẳng còn thọ thân người nữ lại nữa.
Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện: 5. Thân Xinh Ðẹp
Lại nữa, này Phổ Quảng Bồ tát! Nếu có người nữ nào chán thân xấu xí và nhiều bịnh tật, đến nơi trước tượng của Ngài Ðịa Tạng Bồ tát chí tâm chiêm ngưỡng đảnh lễ chừng trong khoảng một bữa ăn, người nữ đó trong nghìn vạn kiếp thọ sanh được thân hình tướng mạo xinh đẹp không có bịnh tật.
Người nữ xấu xí đó nếu không nhàm thân gái, thời trăm nghìn muôn ức đời thường làm con gái nhà Vua cho đến làm Vương Phi, dòng dõi nhà quan lớn cùng con gái các vị đại Trưởng giả, tướng mạo đoan trang xinh đẹp.
Do vì có lòng chí thành chiêm ngưỡng đảnh lễ hình tượng của Ngài Ðịa Tạng Bồ tát mà đặng phước như thế.
Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện: 6. Quỷ Thần Hộ Vệ
Lại nữa, này Phổ Quảng! Như có người thiện nam, người thiện nữ nào có thể đối trước tượng của Ðịa Tạng Bồ tát mà trổi các thứ kỹ nhạc, ngâm ca khen ngợi, dùng hương hoa cúng dường, cho đến khuyến hóa được một người hay nhiều người.
Những hạng người đó ở trong đời hiện tại cùng thuở vị lai sau, thường được trăm nghìn vị Quỷ Thần ngày đêm theo hộ vệ còn không cho những việc hung dữ đến tai người đó, huống là để cho người đó phải chịu các tai vạ bất ngờ!
Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện: 7. Khinh Chê Mắc Tội
Lại nữa này Phổ Quảng Bồ tát! Trong đời sau, như có người ác và ác thần, ác quỷ nào thấy kẻ thiện nam, người thiện nữ quy y cung kính, cúng dường ngợi khen chiêm ngưỡng đảnh lễ hình tượng của Ngài Ðịa Tạng Bồ tát, mà vọng sanh khinh chê là không có công đức cùng không có sự lợi ích. Hoặc nhăn răng ra cười, hoặc chê sau lưng hay chê trước mặt. Hoặc khuyên bảo người khác cùng chê, hoặc khuyên bảo một người cùng chê hay nhiều người cùng chê. Cho đến sanh lòng chê bai trong chừng một niệm.
Thời những kẻ như thế đến sau khi một nghìn Ðức Phật trong Hiền Kiếp nhập diệt cả, bị tội báo khinh chê nên còn ở trong địa ngục A Tỳ chịu khổ rất nặng.
Qua khỏi Hiền Kiếp này mới được thọ thân ngạ quỷ, rồi mãi đến một nghìn kiếp sau mới thọ thân súc sanh. Lại phải trải qua đến một nghìn kiếp nữa mới đặng sanh làm người.
Dầu được làm người nhưng ở vào hạng bần cùng hèn hạ tật nguyền thiếu sứt, hay bị những nghiệp ác ràng buộc vào thân, không bao lâu phải sa đọa vào ác đạo nữa.
Này Phổ Quảng! Khinh chê người khác cúng dường mà còn mắc phải tội báo xấu khổ như thế, huống nữa là tự sanh ác kiến mà khinh chê phá diệt!
Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện: 8. Tiêu Diệt Tội Chướng
Lại nữa, này Phổ Quảng Bồ tát! Trong đời sau, như có người nam, người nữ nào đau nằm liệt mãi trên giường gối, cầu sống hay muốn chết cũng đều không được. Hoặc đêm nằm chiêm bao thấy quỷ dữ cho đến kẻ thân thích trong nhà. Hoặc thấy đi trên đường nguy hiểm hoặc bị bóng đè, hoặc với quỷ thần cùng đi.
Trải qua nhiều tháng nhiều năm, đến đỗi thành bịnh lao, bịnh bại… Trong giấc ngủ kêu réo thê thảm sầu khổ. Ðây đều bị nơi nghiệp đạo luận đối chưa quyết định là khinh hay trọng, nên hoặc là khó chết, hoặc là khó lành.
Mắt phàm tục của kẻ nam, người nữ không thể biện rõ việc đó. Chỉ phải nên đối trước tượng của chư Phật Bồ tát, to tiếng mà đọc tụng kinh này một biến.
Hoặc lấy những món vật riêng của người bịnh thường ưa tiếc, như y phục, đồ quý báu, nhà cửa ruộng vườn v.v… đối trước người bịnh cất tiếng lớn mà xướng lên rằng:
“Chúng tôi tên đó họ đó, nay vì người bịnh này đối trước kinh tượng đem những của vật này hoặc cúng dường kinh tượng. Hoặc tạo hình tượng của Phật Bồ tát, hoặc xây dựng chùa tháp. Hoặc sắm đèn dầu thắp cúng, hoặc cúng vào của thường trụ”.
*
Xướng lên như vậy ba lần để cho người bịnh được nghe biết. Giả sử như thần thức của người bịnh đã phân tán đến hơi thở đã dứt. Thời hoặc một ngày, hai ngày, ba ngày, cho đến bảy ngày, cứ lớn tiếng xướng bạch như trên và lớn tiếng tụng kinh này.
Sau khi người bịnh đó mạng chung thời dầu cho từ trước có tội vạ nặng nhẫn đến năm tội Vô Gián, cũng được thoát khỏi hẳn. Thọ sanh vào đâu cũng thường nhớ biết việc đời trước.
Huống nữa là người thiện nam, người thiện nữ nào tự mình biên chép kinh này. Hoặc bảo người biên chép, hoặc tự mình đắp vẽ hình tượng của Bồ tát. Cho đến bảo người khác vẽ đắp, người đó khi thọ quả báo chắc đặng nhiều lợi lớn.
Này Phổ Quảng Bồ tát! Vì thế nên, nếu ông thấy có người nào đọc tụng kinh này, cho đến chỉ trong một niệm khen ngợi kinh này, hoặc là có lòng cung kính đối với kinh. Thời ông cần phải dùng trăm nghìn phương chước khuyến hóa người đó, phát lòng siêng năng chớ đừng thối thất. Thời có thể được trăm nghìn muôn ức công đức không thể nghĩ bàn ở hiện tại và vị lai.
Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện: 9. Siêu Ðộ Vong Linh
Lại nữa, này Phổ Quảng Bồ tát! Như những chúng sinh đời sau, hoặc trong giấc ngủ, hoặc trong chiêm bao thấy các hạng Quỷ, Thần nhẫn đến các hình lạ. Rồi hoặc buồn bã, hoặc khóc lóc, hoặc rầu rĩ, hoặc than thở, hoặc hãi hùng, hoặc sợ sệt…
Ðó đều là vì hoặc cha mẹ, con em, hoặc chồng vợ, quyến thuộc trong một đời, mười đời, hay trăm đời nghìn đời về thuở quá khứ bị đọa lạc vào ác đạo chưa được ra khỏi. Không biết trông mong vào phước lực nơi nào để cứu vớt nỗi khổ não. Nên mới về mách bảo với người có tình cốt nhục trong đời trước cầu mong làm phương tiện gì để hầu được thoát khỏi ác đạo.
Này Phổ Quảng! Ông nên dùng sức oai thần, khiến hàng quyến thuộc đó đối trước hình tượng của chư Phật, chư Bồ tát chí tâm tự đọc kinh này, hoặc thỉnh người khác đọc đủ số ba biến hoặc đến bảy biến.
Như vậy kẻ quyến thuộc đương mắc trong ác đạo kia, khi tiếng tụng kinh đủ số mấy biến đó xong sẽ đặng giải thoát. Cho đến trong khi mơ ngủ không còn thấy hiện về nữa.
Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện: 10. Khỏi Nô Lệ
Lại nữa, này Phổ Quảng! Như đời sau này có những hạng người hạ tiện, hoặc tớ trai, hoặc tớ gái nhẫn đến những kẻ không được quyền tự do. Rõ biết là do tội nghiệp đời trước gây ra cần phải sám hối đó. Thời nên chí tâm chiêm ngưỡng đảnh lễ hình tượng của Ngài Ðịa Tạng Bồ tát. Rồi trong bảy ngày niệm danh hiệu của Ðịa Tạng Bồ tát đủ một muôn biến.
Những người trên đó sau khi mãn báo thân hạ tiện ở hiện đời trong nghìn muôn đời về sau thường sanh vào bực tôn quý, trọn không bao giờ còn phải sa đọa vào ba đường ác khổ nữa.
Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện: 11. Sanh Con Dễ Nuôi
Lại vầy nữa, này Phổ Quảng Bồ tát! Về trong thuở sau này, nơi cõi Diêm Phù Ðề. Trong hàng Sát Ðế Lợi, Bà La Môn, Trưởng giả, Cư Sĩ, tất cả các hạng người, và những dân tộc dòng họ khác. Như có người nào mới sinh đẻ hoặc con trai hoặc con gái. Nội trong bảy ngày, sớm vì đứa trẻ mới sinh ra đó mà tụng kinh điển không thể nghĩ bàn này. Lại vì đứa trẻ mà niệm danh hiệu của Ngài Ðịa Tạng Bồ tát đủ một muôn biến.
Ðược vậy thời đứa trẻ hoặc trai hay là gái mới sanh ra đó, nếu đời trước nó có gây lấy tội vạ chi cũng đặng thoát khỏi cả. Nó sẽ an ổn vui vẻ dễ nuôi, lại thêm được sống lâu.
Còn như nó là đứa nương nơi phước lực mà thọ sanh, thời đời nó càng được an vui hơn cùng sống lâu hơn.
Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện: 12. Ngày Thập Trai Tụng Kinh Ðược Phước
Lại vầy nữa, này Phổ Quảng! Trong mỗi tháng những ngày mùng một, mùng tám, mười bốn, rằm, mười tám, hăm ba, hăm bốn, hăm tám, hăm chín và ba mươi. Mười ngày trên đây là ngày mà các nghiệp tội kết nhóm lại để định là nặng hay nhẹ.
Tất cả những cử chỉ động niệm của chúng sinh trong cõi Nam Diêm Phù Ðề không có điều gì chẳng phải là tội lỗi. Huống nữa là những kẻ buông lung giết hại, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ trăm điều tội lỗi.
Về đời sau, nếu có chúng sinh nào trong mười ngày trai kể trên đây, mà có thể đối trước hình tượng của chư Phật, Bồ tát, Hiền, Thánh để đọc tụng kinh này một biến. Thời chung quanh chỗ người đó ở bốn hướng Ðông, Tây, Nam, Bắc trong khoảng một trăm do tuần không có xảy ra những việc tai nạn.
Còn chính nhà của người đó ở, tất cả mọi người hoặc già hoặc trẻ về hiện tại và vị lai đến trăm nghìn năm xa khỏi hẳn các ác đạo.
Trong mười ngày trai trên đây nếu có thể mỗi ngày tụng một biến kinh này, thời trong đời hiện tại hay làm cho người trong nhà không phải mắc phải bịnh tật bất ngờ, đồ ăn mặc dư dật.
*
Này Phổ Quảng! Vì thế nên biết rằng Ngài Ðịa Tạng Bồ tát có bất khả thuyết trăm nghìn muôn ức những sự oai thần lực lớn nhiều lợi ích cho chúng sinh như thế.
Chúng sinh trong cõi Diêm Phù Ðề này có nhân duyên lớn với Ngài Ðịa Tạng Ðại Sĩ. Những chúng sinh đó hoặc được nghe danh hiệu của Ðịa Tạng Bồ tát. Hoặc được thấy hình tượng của Ðịa Tạng Bồ tát. Cho đến nghe chừng ba chữ hay năm chữ trong kinh này, hoặc một bài kệ hay một câu. Thời những người đó hưởng sự an vui lạ thường trong đời hiện tại. Trăm nghìn muôn đời về vị lai thường được thác sanh vào nhà tôn quý, thân hình xinh đẹp.
Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện: 13. Danh Hiệu Của Kinh
Khi nghe Ðức Phật Như Lai tuyên bày ngợi khen Ngài Ðịa Tạng Ðại Sĩ xong, Ngài Phổ Quảng Bồ tát liền quỳ xuống chắp tay mà bạch cùng Ðức Phật rằng:
“Bạch Thế Tôn! Từ lâu con rõ biết vị Ðại Sĩ này có thần lực cùng đại nguyện lực không thể nghĩ bàn như thế rồi. Song nay vì muốn những chúng sinh trong đời sau này rõ biết các sự lợi ích đó, nên con mới bạch hỏi cùng đức Như Lai. Vâng! Con xin cung kính tin nhận lời Phật dạy. Bạch đức Thế Tôn! Kinh này đặt tên là gì và định cho con lưu bố thế nào?”
Ðức Phật bảo Ngài Phổ Quảng: “Kinh này có ba danh hiệu: Một là “Ðịa Tạng Bổn Nguyện Kinh”, cũng gọi là “Ðịa Tạng Bổn Hạnh kinh” đây là tên thứ hai, cũng gọi là “Ðịa Tạng Bổn Thệ Lực kinh” đây là tên thứ ba. Do vì Ngài Ðịa Tạng Bồ tát từ thuở kiếp lâu xa đến nay phát nguyện rộng lớn làm lợi ích cho chúng sinh. Cho nên các ông phải đúng theo tâm nguyện mà lưu hành truyền bá kinh này.”
Nghe Ðức Phật dạy xong, Ngài Phổ Quảng Bồ tát tin chịu, chắp tay cung kính lễ Phật lui ra.
Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện – Như Lai tán thán – Phẩm thứ sáu- 10 Câu Hỏi Thường Gặp Nhất Về Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện – Phẩm Thứ Sáu – Như Lai Tán Thán Và Câu Trả Lời (FAQ)
1. Phẩm “Như Lai Tán Thán” nói về điều gì? Tóm tắt nội dung cốt lõi.
Trả lời:
Phẩm thứ sáu của Kinh Địa Tạng thường được gọi là “Như Lai Tán Thán” (如來讚歎品). Về nội dung, phẩm này chủ yếu là phần Như Lai (Đức Phật) tán thán, ca ngợi công đức, chí nguyện, và hạnh nguyện của Bồ Tát Địa Tạng. Những điểm nổi bật:- Như Lai mô tả, khen ngợi những phương tiện, công hạnh và việc làm cứu độ vô lượng chúng sinh của Địa Tạng.
- Phẩm làm nổi bật hai yếu tố: (1) tầm vóc vĩ đại của bổn nguyện Địa Tạng (nguyện không thành Phật cho đến khi mọi địa ngục rỗng không) và (2) phương tiện, trí tuệ và từ bi mà Địa Tạng dùng để cứu độ.
- Mục đích thực tế: tăng niềm tin (saddhā) nơi hàng tín đồ, khuyến khích mọi người noi theo hạnh nguyện, phát tâm từ bi, đồng thời giải thích ý nghĩa các hành vi tu tập (tụng kinh, hồi hướng, bố thí) trong việc giúp người lìa khổ.
Tóm lại, phẩm này là đoạn “ghi nhận” và “đại ngợi” — để nhắc nhở rằng hạnh nguyện cứu khổ của Bồ Tát là tấm gương và là nguồn cảm hứng cho hành giả.
2. Tại sao gọi là “Như Lai Tán Thán”? Ý nghĩa của “tán thán” là gì trong bối cảnh kinh điển?
Trả lời:
“Tán thán” theo Hán ngữ có nghĩa là khen ngợi, tán dương, ca tụng. Trong bối cảnh kinh điển Phật giáo:- Khi Như Lai tán thán một vị Bồ Tát, đó không phải là tâng bốc sáo rỗng mà là sự tuyên chứng về phẩm hạnh và lợi ích giáo hóa. Lời tán thán của Phật mang tính thẩm quyền (Phật đã thấy sâu) và nhằm khuyến khích tín tâm, củng cố thiện căn nơi người nghe.
- “Như Lai tán thán” còn là phương tiện kích phát niềm tin (saddhā): nghe Phật tán thán, hành giả sinh lòng tin vào đạo, vào pháp, từ đó dễ thực hành hơn.
- Ngoài ra, qua tán thán, Phật thường chỉ ra ý nghĩa nhân quả, phương pháp tu hành, và cách ứng dụng hạnh Địa Tạng trong đời sống.
Vì vậy “Như Lai tán thán” là một đặc cách giáo hóa: dùng lời của bậc giác ngộ để thúc đẩy lòng quyết tâm tu tập nơi chúng sinh.
3. Phẩm này đóng vai trò gì trong cấu trúc tổng thể của Kinh Địa Tạng?
Trả lời:
Trong cấu trúc toàn kinh, các phẩm thường thay đổi chức năng: có phẩm kể chuyện, phẩm giảng lý, phẩm mô tả thần thông, phẩm hướng dẫn hành trì, phẩm phát triển đạo đức xã hội… Phẩm thứ sáu — Như Lai Tán Thán có vai trò:- Khẳng định và củng cố thông điệp chính của toàn kinh: đó là bổn nguyện cứu độ, tầm quan trọng của hiếu đạo và phương pháp hồi hướng công đức.
- Đặt Bồ Tát Địa Tạng vào vị thế nhân bản và vũ trụ — tức khi Phật tán thán, toàn bộ pháp hội nghe và được khích lệ.
- Có tác dụng kết nối cảm xúc: sau khi nghe các phẩm mô tả khổ đau và phương pháp cứu độ, phẩm tán thán làm tăng cảm hứng hành thiện ngay trong thính chúng.
Nói ngắn gọn: phẩm này là phần “động viên chính thức” của Phật, giúp thi hành nội dung các phẩm trước đó và dẫn vào các pháp hành thực tế sau đó.
4. Những điểm giáo lý quan trọng được nhắc trong phẩm này là gì?
Trả lời:
Phẩm Như Lai Tán Thán tập trung nhấn mạnh một số giáo lý then chốt:- Tầm quan trọng của bổn nguyện (bodhicitta và pratijñā): Tuyên dương ý chí kiên định của Địa Tạng — nguyện cứu độ vô lượng chúng sinh — như là động lực căn bản của hành Bồ Tát.
- Pháp phương tiện (upāya): Phật tán thán các phương tiện từ bi mà Địa Tạng sử dụng (hoá thân, dụ ngôn, giáo hoá cá nhân) để phù hợp căn cơ từng chúng sinh.
- Nhân quả và hồi hướng: phẩm nhắc rõ rằng công đức có thể được hồi hướng để an ủi, giúp đỡ chúng sinh khác; vì vậy tụng niệm, bố thí, sám hối không vô ích.
- Tâm đại bi thực hành: Phẩm khuyến khích hành giả nuôi dưỡng sự kiên trì, độ lượng và hành động cụ thể thay vì chỉ triết lý suông.
- Sự liên hệ Phật-Bồ Tát-chúng sinh: Phẩm minh chứng việc Phật ủng hộ hành động Bồ Tát — thể hiện tính cộng đồng và truyền thống truyền thừa trong đạo.
Những giáo lý này vừa là nền tảng triết lý vừa là kim chỉ nam thực hành.
5. Khi tụng phẩm “Như Lai Tán Thán”, người hành trì nên có tâm thái và mục đích như thế nào để việc tụng có hiệu quả?
Trả lời:
Tụng phẩm này (như tất cả tụng kinh) nên đi kèm với bốn thái độ chính:- Tâm cung kính (respect): hướng về Tam Bảo và Bồ Tát bằng lòng tôn kính chân thành, không phải bằng tò mò hay thị hiếu.
- Tâm thành (sincerity): tụng với ý nguyện rõ ràng: học hỏi lời Phật, phát tâm từ, hồi hướng phúc cho người hữu duyên.
- Tâm quán (contemplation): không chỉ đọc thuộc lòng; xen vật quán chiếu ý nghĩa lời Phật — công hạnh, hậu quả của nghiệp, cách hành thiện.
- Tâm hành (application): lấy lời tán thán làm động lực cho hành vi cụ thể: bố thí, giúp người, chăm sóc cha mẹ, tham gia công tác xã hội.
Mục đích tụng có hiệu quả là nhằm kích phát thiện căn chứ không phải “mua” lợi ích. Khi tâm thành và kèm hành động thiện, tụng sẽ thực sự chuyển hóa.
6. Có nghi lễ hay cấu trúc pháp hội mẫu khi tụng phẩm này không? (nghi thức, bố trí, lời hồi hướng)
Trả lời:
Dưới đây là khung pháp hội đơn giản để tụng phẩm “Như Lai Tán Thán” trong gia đình, đạo tràng hay chùa:A. Chuẩn bị:
- Không gian trang nghiêm, mâm lễ (hoa, trà, quả, đèn, hương).
- Bản kinh (bản chữ Hán–Việt hoặc bản dịch).
- Người chủ trì (Tăng/ni hoặc người hiểu kinh).
- Máy trợ âm nếu đông người.
B. Trình tự pháp hội (gợi ý, 45–90 phút):
- Khởi lễ: Quy y Tam Bảo (3–5 phút).
- Khởi tâm phát nguyện: Chủ lễ dẫn nhập, mời mọi người khởi tâm bố thí, sám hối, phát đại nguyện.
- Tụng phẩm: Tụng “Như Lai Tán Thán” chậm, rõ. Có thể xen quán chiếu ngắn sau mỗi đoạn để thính chúng hiểu.
- Kệ sám hối: Sau tụng, làm sám ngắn (xưng tội, xin chuyển).
- Bố thí & hồi hướng: Thực hiện cúng dường Tam Bảo (hoặc công đức khác), sau đó hồi hướng công đức (nêu tên những người cần hồi hướng nếu có).
- Kết lễ: Niệm danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng 3–21 lần; Pháp thoại ngắn (nếu cần); Chào Phật, kết thúc.
C. Lời hồi hướng mẫu (tiếng Việt):
“Nguyện đem tất cả công đức đã tạo; tất cả nhân duyên phước lành này, hồi hướng về: cha mẹ nhiều đời nhiều kiếp, quý hương linh … (nêu tên nếu cần) và hết thảy chúng sinh đang chịu đau khổ; nguyện cho lìa mọi uẩn khổ, sinh về cõi an lành, được duyên lành tu hành.”
Lưu ý: số lần tụng hay hình thức có thể linh hoạt theo truyền thống địa phương (7, 21, 49 lần, hoặc tụng trọn bộ). Quan trọng nhất là tâm thành và ý nghĩa hồi hướng.
7. Niệm danh hiệu Địa Tạng hay tụng phẩm này có “hiệu quả tức thời” không? Có phải phép thần khiến bệnh, nghèo… biến đâu?
Trả lời:
Cần phân biệt tín ngưỡng và thực hành chân chính:- Không có bằng chứng cho phép thần tức thời làm biến mất mọi tai ương chỉ nhờ đọc kinh một lần. Kinh Phật và phẩm này không dạy mê tín kiểu “bấm nút” để được lợi ích ngay.
- Tuy nhiên, tụng kinh và niệm danh hiệu có các hiệu quả thiết thực: an tâm (giảm stress), tăng thiện tâm, tạo duyên lành với cộng đồng (người giúp người), và qua đó có thể gián tiếp cải thiện điều kiện (khỏe hơn, có bạn giúp, tìm được lời khuyên y tế, cải thiện tinh thần).
- Trong trường hợp người chết, việc gia đình tụng niệm, sám hối, làm phúc và hồi hướng thường được xem là hữu ích để tạo duyên lành cho vong linh, nhưng không phải đảm bảo theo kiểu mê tín.
- Tinh túy của kinh là thúc đẩy hành động: sửa lỗi, giúp người, làm phúc — chính những hành động này mới đem lại thay đổi bền vững.
Kết luận: tụng có “công đức” nhưng không phải là bùa phép; hiệu quả đến từ tâm và hành động hợp lý cộng với duyên lành.
8. Có những hình ảnh, biểu tượng hay câu từ quan trọng trong phẩm này không? Giải nghĩa một vài chỗ dễ gây nhầm lẫn.
Trả lời:
Phẩm “Như Lai Tán Thán” chứa nhiều hình ảnh mang tính biểu tượng. Một số điểm cần hiểu:- “Như Lai”: là danh xưng của Phật, biểu tượng trí tuệ và khả năng thấy thấu nhân duyên. Khi Như Lai tán thán, đó là lời xác nhận chân lý.
- “Tán thán công hạnh”: tiếng khen mang tính khích lệ, chứ không phải trọng thưởng thế gian.
- “Hóa thân”: biểu hiện của khả năng ứng cơ cứu độ — không phải phân thân vật lý theo nghĩa hiện đại mà là khả năng hiển hiện trong nhiều hình thức để phù hợp căn cơ chúng sinh.
- “Ngọc minh châu, khánh” (nếu phẩm nhắc): là biểu tượng trí tuệ sáng suốt và tiếng gọi đánh thức (khánh/bangled staff) – tượng trưng hành trình hoằng hóa.
- Danh từ “địa ngục/địa vị” trong lời tán thán: nên hiểu là cả hai: cõi đau khổ và trạng thái tâm bị khổ.
Khi giải nghĩa, tránh đọc theo nghĩa biểu tượng từng chữ một cách kinh viện; hãy luôn gắn với mục đích đạo đức: thúc đẩy từ bi và chuyển hóa.
9. Phẩm này có ý nghĩa gì đối với đời sống xã hội hiện đại? (tính ứng dụng, giáo dục đạo đức)
Trả lời:
Ý nghĩa ứng dụng của phẩm rất rộng:- Giáo dục đạo đức: phẩm khích lệ lòng hiếu, lòng từ, trách nhiệm với người yếu thế — có thể đưa vào chương trình giáo dục nhân cách, đạo đức trong gia đình và trường học.
- An ủi trong tang lễ: phần tán thán làm dịu nỗi buồn, nhắc gia đình làm việc thiện và hồi hướng công đức cho người mất.
- Động lực cho công tác xã hội: tán thán hạnh cứu khổ có thể truyền cảm hứng cho người làm thiện nguyện, y tế cộng đồng, trợ giúp người già, trẻ em.
- Tâm lý trị liệu tinh thần: tụng, quán giúp người có stress, sợ hãi tìm lại bình an nội tâm, có tác dụng hỗ trợ tâm lý.
- Bảo tồn văn hóa và tôn giáo: phẩm là phần của di sản tinh thần Đông Á, góp phần duy trì văn hóa hiếu đạo và cộng đồng từ bi.
Như vậy phẩm không chỉ là văn bản tôn giáo mà còn là nguồn cảm hứng đạo đức trong xã hội hiện đại.
10. Những hiểu lầm thường gặp liên quan đến phẩm “Như Lai Tán Thán” và những lời khuyên để tránh mê tín, lợi dụng?
Trả lời:
Một vài hiểu lầm phổ biến và cách xử trí:- Hiểu lầm 1 — “Tán thán = ban thưởng thần linh”: một số người cho rằng Phật tán thán để ban thưởng thế gian. Thực tế, tán thán là khích lệ tuệ và hành động tu tập. Lời khuyên: đọc với tinh thần học hỏi, không mong “phần thưởng vật chất”.
- Hiểu lầm 2 — “Đọc nhiều lần là có phép màu”: nhiều người nghĩ số lần tụng quyết định kết quả. Lời khuyên: số lần có thể là phương tiện kỷ luật tâm, nhưng quan trọng là ý nguyện và hành động thiện.
- Hiểu lầm 3 — “Cứ làm lễ là xong nhiệm vụ đạo đức”: nghĩ rằng chỉ cần tụng kinh cho xong; thực tế không có ý nghĩa nếu không kèm hành động. Lời khuyên: kết hợp với bố thí, chăm sóc, biện pháp thiết thực.
- Hiểu lầm 4 — lợi dụng tôn giáo để trục lợi: có nơi biến pháp hội thành thương mại, mời tụng để thu tiền bất minh. Lời khuyên: tổ chức minh bạch, tôn trọng pháp luật, tránh mê tín và lạm dụng lòng tin.
Tóm lại, đọc kinh phải đi đôi với trí tuệ: hiểu đúng, hành đúng, tránh mê tín và lợi dụng.