Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện – Phẩm thứ tư – Nghiệp cảm của chúng sinh

Loading ....
Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện, khổ mini
Đã bán: Đánh giá/quan tâm:
(5/5)
cập nhật: 16/06/2023
Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện, Khổ A4
Đã bán: Đánh giá/quan tâm:
(0/5)
cập nhật: 16/06/2023
KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN TRỌN BỘ 2021
Đã bán: Đánh giá/quan tâm:
(1/5)
cập nhật: 14/07/2021
Sách - Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Khổ A4
Đã bán: Đánh giá/quan tâm:
(0/5)
cập nhật: 16/06/2023
Sách - Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Khổ Mini
Đã bán: Đánh giá/quan tâm:
(0/5)
cập nhật: 16/06/2023

 

Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Pháp Đăng

Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Tịnh

Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện: 1. Bồ tát Vâng Chỉ

Lúc đó, Ngài Ðịa Tạng Bồ tát bạch cùng đức Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Con nương sức oai thần của đức Như Lai, nên chia thân hình này ở khắp trăm nghìn muôn ức thế giới, để cứu vớt tất cả chúng sinh bị nghiệp báo.

Nếu không nhờ sức đại từ của đức Như Lai, thời chẳng có thể biến hóa ra như thế được. Nay con lại được Như Lai phó chúc: Từ nay đến khi Ngài A Dật Ða thành Phật, làm cho chúng sinh trong sáu đường đều đặng độ thoát. Xin vâng! Bạch đức Thế Tôn! Xin đức Thế Tôn chớ lo!”.

Bấy giờ đức Phật bảo Ngài Ðịa Tạng Bồ tát rằng: “Những chúng sinh mà chưa được giải thoát, tánh thức của nó không định. Hễ quen làm dữ thời kết thành nghiệp báo dữ, còn quen làm lành thời kết thành quả báo lành.

Làm lành cùng làm dữ tùy theo cảnh duyên mà sanh ra lăn mãi trong sáu đường không lúc nào tạm ngừng ngớt. Mê lầm chướng nạn trải đến kiếp số nhiều như vi trần.

Ví như loài cá bơi lội trong lưới theo dòng nước chảy, thoạt hoặc tạm được ra, rồi lại mắc vào lưới. Vì thế nên ta phải lo nghĩ đến những chúng sinh đó.

Ðời trước ông trót đã lập nguyện trải qua nhiều kiếp phát thệ rộng lớn độ hết cả hàng chúng sinh bị tội khổ, thời Ta còn lo gì!”

Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện: 2. Ðịnh Tự Tại Vương Bạch Hỏi

Khi đức Phật dạy lời như thế xong, trong Pháp hội có vị đại Bồ tát hiệu là Ðịnh Tự Tại Vương ra bạch cùng đức Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn! Từ nhiều kiếp đến nay, Ngài Ðịa Tạng Bồ tát đã phát thệ nguyện gì, mà nay được đức Thế Tôn ân cần ngợi khen như thế? Cúi mong đức Thế Tôn lược nói cho”.

Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo Ngài Ðịnh Tự Tại Vương Bồ tát: “Lóng nghe! lóng nghe! Phải khéo suy xét đó, Ta sẽ vì ông mà giải bày rõ ràng.”

Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện: 3. Ông Vua Nước Lân Cận

Vô lượng vô số na do tha bất khả thuyết kiếp về thuở trước. Lúc đó, có đức Phật ra đời hiệu là Nhất Thiết Trí Thành Tựu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn.

Ðức Phật đó thọ sáu muôn kiếp. Khi Ngài chưa xuất gia, thời Ngài làm Vua một nước nhỏ kia, kết bạn cùng với Vua nước lân cận. Hai Vua đồng thật hành mười hạnh lành làm lợi ích cho nhơn dân.

Nhơn dân trong nước lân cận đó phần nhiều tạo những việc ác. Hai Vua cùng nhau bàn tính tìm những phương chước để dắt dìu dân chúng ấy.

Một ông phát nguyện: “Tôi nguyện sớm thành Phật sẽ độ dân chúng ấy làm cho đều được giải thoát không còn thừa”.

Một ông phát nguyện: “Như tôi chẳng trước độ những kẻ tội khổ làm cho đều đặng an vui chứng quả Bồ Ðề, thời tôi nguyện chưa chịu thành Phật”.

Ðức Phật bảo Ngài Ðịnh Tự Tại Vương rằng: “Ông Vua phát nguyện sớm thành Phật đó, chính là đức Nhứt Thiết Trí Thành Tựu Như Lai.

Còn ông Vua phát nguyện độ chưa hết những chúng sinh tội khổ thời chưa nguyện thành Phật đó, chính là Ngài Ðịa Tạng Bồ tát đây vậy.”

Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện: 4. Quang Mục Cứu Mẹ

Lại vô lượng vô số kiếp về thuở trước, có đức Phật ra đời, hiệu là Liên Hoa Mục Như Lai. Ðức Phật đó thọ bốn mươi kiếp.

Trong thời mạt pháp, có một vị La Hán phước đức cứu độ chúng sinh. Nhơn vì đi tuần tự giáo hóa mọi người. La Hán gặp một người nữ tên là Quang Mục, nàng này sắm sửa đồ ăn cúng dường La Hán.

La Hán thọ cúng rồi hỏi: “Nàng muốn những gì?”.

Quang Mục thưa rằng: “Ngày thân mẫu tôi khuất, tôi làm việc phước thiện để nhờ đó mà cứu vớt thân mẫu tôi. Chẳng rõ thân mẫu tôi thác sanh vào đường nào?”

La Hán nghe nói cảm thương bèn nhập định quan sát, thời thấy bà mẹ của Quang Mục đọa vào chốn địa ngục rất khổ sở.

La Hán hỏi Quang Mục rằng: “Thân Mẫu ngươi lúc sanh tiền đã làm những hạnh nghiệp gì, mà nay phải đọa vào chốn địa ngục rất khổ sở như thế?”

Quang Mục thưa rằng: “Ngày còn sống, thân mẫu tôi chỉ ưa ăn thịt loài cá trạnh. Phần nhiều là hay ăn cá con và trạnh con, hoặc chiên, hoặc nấu, tha hồ mà ăn cho thỏa mãn.

Nếu tính đếm số cá trạnh của người đã ăn thời đến hơn nghìn muôn. Xin Tôn Giả thương xót chỉ dạy phải làm cách nào để cứu thân mẫu tôi?”

*

La Hán xót thương bèn dạy phương chước, ngài khuyên Quang Mục rằng:

“Ngươi phải đem lòng chí thành mà niệm đức Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như Lai, và vẽ đắp hình tượng đức Phật. Thời kẻ còn cùng người mất đều được phước lợi!”

Quang Mục nghe xong, liền xuất tiền của, họa tượng Phật mà thờ cúng. Nàng lại đem lòng cung kính, khóc than chiêm ngưỡng đảnh lễ tượng Phật.

Ðêm đó, nàng chiêm bao thấy thân của đức Phật sắc vàng sáng chói như hòn núi Tu di. Ðức Phật phóng ánh sáng mà bảo Quang Mục rằng: “Chẳng bao lâu đây thân mẫu ngươi sẽ thác sanh vào trong nhà của ngươi, khi vừa biết đói lạnh thời liền biết nói”.

Sau đó, đứa tớ gái trong nhà sanh một đứa con trai, chưa đầy ba ngày đã biết nói. Trẻ đó buồn khóc mà nói với Quang Mục rằng:

“Nghiệp duyên trong vòng sanh tử phải tự lãnh lấy quả báo. Tôi là mẹ của người, lâu nay ở chốn tối tăm. Từ khi vĩnh biệt người, tôi phải đọa vào đại địa ngục.

Nhờ phước lực của người, nên nay được thọ sanh làm kẻ hạ tiện, lại thêm số mạng ngắn ngủi, năm mười ba tuổi đây sẽ bị đọa vào địa ngục nữa. Người có phương thế gì làm cho tôi được thoát khỏi nỗi khổ sở?”

*

Nghe đứa trẻ nói, Quang Mục biết chắc là mẹ mình. Nàng nghẹn ngào khóc lóc mà nói với đứa trẻ rằng: “Ðã là mẹ của tôi, thời phải tự biết tội của mình, đã gây tạo hạnh nghiệp chi mà bị đọa vào địa ngục như thế?”

Ðứa trẻ đáp rằng: “Do hai nghiệp: Giết hại sinh vật và chê bai mắng nhiếc, mà thọ báo khổ. Nếu không nhờ phước đức của người cứu nạn cho tôi, thời cứ theo tội nghiệp đó vẫn còn chưa được thoát khổ”.

Quang Mục hỏi rằng: “Những việc tội báo trong địa ngục ra làm sao?”

Ðứa trẻ đáp rằng: “Những việc tội khổ nói ra càng bất nhẫn, dẫu đến trăm nghìn năm cũng không thuật hết được”.

Quang Mục nghe xong, than khóc rơi lệ mà bạch cùng giữa hư không rằng:

“Nguyện cho thân mẫu tôi khỏi hẳn địa ngục khi mãn mười ba tuổi không còn có trọng tội cùng không còn đọa vào ác đạo nữa.

Xin chư Phật trong mười phương thương xót chứng minh cho tôi, vì mẹ mà tôi phát nguyện rộng lớn như vầy:

*

Như thân mẫu tôi khỏi hẳn chốn tam đồ và hạng hạ tiện cùng thân gái, cùng kiếp không còn thọ những quả báo xấu đó nữa. Tôi đối trước tượng của đức Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như Lai mà phát lời nguyện rằng: Từ ngày nay nhẫn về sau đến trăm nghìn muôn ức kiếp, trong những thế giới nào mà các hàng chúng sinh bị tội khổ nơi địa ngục cùng ba ác đạo. Tôi nguyện cứu vớt chúng đó làm cho tất cả đều thoát khỏi chốn ác đạo: Địa ngục, súc sanh và ngạ quỉ, v.v…

Những kẻ mắc phải tội báo như thế thành Phật cả rồi, vậy sau tôi mới thành bậc Chánh Giác”.

Quang Mục phát nguyện đó xong, liền nghe tiếng của Ðức Phật Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như Lai dạy rằng: “Này Quang Mục! Nhà ngươi rất có lòng từ mẫn, vì mẹ mà phát ra lời thệ nguyện rộng lớn như thế thật là hay lắm!

Ta quan sát thấy mẹ nhà ngươi lúc mãn mười ba tuổi, khi bỏ báo thân này sẽ thác sanh làm người Phạm Chí sống lâu trăm tuổi.

Sau đó vãng sanh về cõi nước Vô Ưu sống lâu đến số không thể tính kể.

Sau rốt sẽ thành Phật độ nhiều hạng người, trời, số đông như số cát sông Hằng”.

*

Ðức Phật bảo Ngài Ðịnh Tự Tại Vương Bồ tát rằng: “Vị La Hán phước lành độ Quang Mục thuở đó, chính là Vô Tận Ý Bồ tát. Thân mẫu của Quang Mục là Ngài Giải Thoát Bồ tát.

Còn Quang Mục thời là Ngài Ðịa Tạng Bồ tát đây vậy. Trong nhiều kiếp lâu xa về trước Ngài có lòng từ mẫn, phát ra hằng hà sa số lời thệ nguyện độ khắp chúng sinh như thế.

Trong đời sau, như có chúng sinh không làm lành, mà làm ác. Nhẫn đến kẻ chẳng tin luật nhân quả. Kẻ tà dâm, vọng ngữ, kẻ lưỡng thiệt, ác khẩu, kẻ hủy báng Ðại Thừa. Những chúng sinh có tội nghiệp như thế chắc phải bị đọa vào ác đạo.

Nếu gặp được hàng thiện tri thức khuyên bảo quy y với Ngài Ðịa Tạng Bồ tát chừng trong khoảng khảy móng tay. Những chúng sinh đó liền đặng thoát khỏi báo khổ nơi ba ác đạo.

Nếu người nào có thể quy kính và chiêm ngưỡng đảnh lễ ngợi khen, cùng dưng cúng những y phục, đồ ăn vật uống, các thứ trân bảo… Thời người đó, trong trăm nghìn muôn ức kiếp sau, thường ở cõi trời hưởng thọ sự vui thắng diệu.

*

Hoặc lúc phước trời hết, sanh xuống chốn nhơn gian, vẫn còn thường làm vị Ðế Vương trong trăm nghìn kiếp. Lại nhớ được cội ngành nhân quả trong các đời trước của mình.

Này Ðịnh Tự Tại Vương! Ngài Ðịa Tạng Bồ tát có sức oai thần rất lớn không thể nghĩ bàn, nhiều sự lợi ích cho chúng sinh như thế. Các ông, những bực Bồ tát, phải ghi nhớ kinh này hầu tuyên truyền lưu bố rộng ra”.

Ngài Ðịnh Tự Tại Vương bạch Ðức Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! xin Phật chớ lo! Nghìn muôn ức đại Bồ tát chúng con đều có thể nương oai thần của Phật mà tuyên lưu rộng kinh này nơi cõi Diêm Phù Ðề để cho lợi ích chúng sinh”.

Ngài Ðịnh Tự Tại Vương Bồ tát bạch với Ðức Phật xong, bèn cung kính chắp tay lễ Phật mà lui ra.

Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện: 5. Tứ Thiên Vương Hỏi Phật

Bấy giờ, bốn ông Thiên Vương đồng từ chỗ ngồi đứng dậy cung kính chắp tay mà bạch cùng Ðức Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Ngài Ðịa Tạng Bồ tát từ kiếp lâu xa nhẫn lại đã phát nguyện rộng lớn như thế, tại sao ngày nay mà vẫn độ chưa hết. Ngài lại còn phải phát lời nguyện rộng lớn nữa? Cúi mong đức Thế Tôn dạy cho chúng con rõ”.

Ðức Phật bảo bốn vị Thiên Vương rằng: “Hay thay! Hay thay! Nay vì muốn được sự lợi cho chúng sinh. Ta vì các ông cùng chúng thiên nhơn ở hiện tại và vị lai, mà nói những sự phương tiện của Ngài Ðịa Tạng Bồ tát ở trong đường sanh tử nơi Diêm Phù Ðề ở cõi Ta Bà thế giới này. Vì lòng từ mẫn xót thương mà cứu vớt, độ thoát tất cả chúng sinh mắc phải tội khổ.”

Bốn ông Thiên Vương bạch rằng: “Vâng! Bạch đức Thế Tôn! Chúng con xin muốn được nghe.”

Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện: 6. Phương Tiện Giáo Hóa

Ðức Phật bảo bốn ông Thiên Vương rằng:

“Từ kiếp lâu xa nhẫn đến ngày nay, Ngài Ðịa Tạng Bồ tát độ thoát chúng sinh vẫn còn chưa mãn nguyện. Ngài thương xót chúng sinh mắc tội khổ đời này, lại quan sát vô lượng kiếp về sau, tội khổ cứ lây dây mãi không dứt.

Vì lẽ đó nên Ngài lại phát ra lời trọng nguyện.

Ðịa Tạng Bồ tát ở trong cõi Diêm Phù Ðề nơi thế giới Ta Bà, dùng trăm nghìn muôn ức phương chước để giáo hóa chúng sinh.

Này bốn ông Thiên Vương! Ngài Ðịa Tạng Bồ tát nếu gặp kẻ sát hại loài sanh vật, thời dạy rõ quả báo vì ương lụy đời trước mà phải bị chết yểu. Nếu gặp kẻ trộm cắp, thời Ngài dạy rõ quả báo nghèo khốn khổ sở. Nếu gặp kẻ tà dâm thời Ngài dạy rõ quả báo làm chim se sẻ, bồ câu, uyên ương.

Nếu gặp kẻ nói lời thô ác, thời Ngài dạy rõ quả báo quyến thuộc kình chống nhau.

Nếu gặp kẻ hay khinh chê, thời Ngài dạy rõ quả báo không lưỡi, miệng lở. Nếu gặp kẻ nóng giận, thời Ngài dạy rõ quả báo thân hình xấu xí tàn tật.

Nếu gặp kẻ bỏn xẻn, thời Ngài dạy rõ quả báo cầu muốn không được toại nguyện. Nếu gặp kẻ buông lung săn bắn, thời Ngài dạy rõ quả báo kinh hãi điên cuồng mất mạng.

*

Nếu gặp kẻ trái nghịch cha mẹ, thời Ngài dạy rõ quả báo trời đất tru lục. Nếu gặp kẻ đốt núi rừng cây cỏ, thời Ngài dạy rõ quả báo cuồng mê đến chết. Nếu gặp cha ghẻ, mẹ ghẻ ăn ở độc ác, thời Ngài dạy rõ quả báo thác sanh trở lại hiện đời bị roi vọt.

Nếu gặp kẻ dùng lưới bắt chim non, thời Ngài dạy rõ quả báo cốt nhục chia lìa. Nếu gặp kẻ hủy báng Tam Bảo, thời Ngài dạy rõ quả báo đui, điếc, câm, ngọng.

Nếu gặp kẻ khinh chê giáo pháp thời Ngài dạy rõ quả báo ở mãi trong ác đạo.

Nếu gặp kẻ lạm phá của thường trụ, thời Ngài dạy rõ quả báo ức kiếp luân hồi nơi địa ngục.

Nếu gặp kẻ ô nhục người hạnh thanh tịnh và vu báng Tăng già, thời Ngài dạy rõ quả báo ở mãi trong loài súc sanh.

Nếu gặp kẻ dùng nước sôi hay lửa, chém chặt, giết hại sinh vật, thời Ngài dạy rõ quả báo phải luân hồi thường mạng lẫn nhau.

Nếu gặp kẻ phá giới phạm trai, thời Ngài dạy rõ quả báo cầm thú đói khát.

Nếu gặp kẻ phung phí phá tổn của cải một cách phi lý, thời Ngài dạy rõ quả báo tiêu dùng thiếu hụt.

*

Nếu gặp kẻ tao ta kiêu mạn cống cao, thời Ngài dạy rõ quả báo hèn hạ bị người sai khiến.

Nếu gặp kẻ đâm chọc gây gỗ, thời Ngài dạy rõ quả báo không lưỡi hay trăm lưỡi.

Nếu gặp kẻ tà kiến mê tín, thời Ngài dạy rõ quả báo thọ sanh vào chốn hẻo lánh.

Những chúng sinh trong cõi Diêm Phù Ðề, từ nơi thân khẩu ý tạo ác, kết quả trăm nghìn muôn sự báo ứng như thế, nay chỉ nói sơ lược đó thôi.

Những nghiệp cảm sai khác của chúng sinh trong chốn Diêm Phù Ðề như thế, Ðịa Tạng Bồ tát dùng trăm nghìn phương chước để giáo hóa đó.

Những chúng sinh ấy trước phải chịu lấy các quả báo như thế, sau lại đọa vào địa ngục trải qua nhiều kiếp không lúc nào thoát khỏi.

Vì thế nên các ông là bậc hộ vệ người cùng bảo trợ cõi nước, chớ để những nghiệp chướng đó nó làm mê hoặc chúng sinh.

Bốn ông Thiên Vương nghe xong, rơi lệ than thở chấp tay lễ Phật mà lui ra.

Kinh Ðịa Tạng Bồ tát Bổn Nguyện Quyển Thượng Hết

Bổn nguyện Ðịa Tạng.

Ðao Lợi Thiên Cung.

Thần Thông hiển hóa độ quần mông.

Ðời ngũ trược khó thông.

Chúng sinh cang cường.

Ham vui khổ vô cùng.

Nam mô Thường Trụ Thập Phương Phật. (3 lần)

Nam mô Ðại Nguyện Ðịa Tạng Bồ tát. (3 lần)

Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện – Nghiệp cảm của chúng sinh – Phẩm thứ tư
Danh sách mã giảm giá, ưu đãi, khuyến mãi, lịch sử giá sản phẩm tại Biti's
Danh sách mã giảm giá, ưu đãi, khuyến mãi, lịch sử giá sản phẩm tại MONEYVEO
Avay.vn
Senmo CPQL
AXA ISTH
TNEX - MSB EKYC IOS
MAI TRADING ANDROID
SamCenter
Tìm kiếm sản phẩm ở khung này
Nhập từ khóa sản phẩm bạn cần tra cứu biến động giá bán tại concung, thegioididong, dienmayxanh, fado, tiki
XEM THÊM
  • 10 Câu Hỏi Thường Gặp Nhất Về Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện – Phẩm Thứ Tư – Nghiệp Cảm Của Chúng Sinh Và Câu Trả Lời (FAQ)
     

    1. Phẩm “Nghiệp cảm của chúng sinh” nói gì — tóm tắt nội dung cốt lõi?

    Trả lời:
    Phẩm thứ tư tập trung vào khái niệm nghiệp cảm — nghĩa là những hậu quả (cảm) mà chúng sinh phải trải qua do nghiệp nhân trong quá khứ và hiện tại. Nội dung chính bao gồm:

    • Mô tả nhiều loại khổ do nghiệp tạo ra (bệnh tật, đói khổ, bị nghịch cảnh, bị đọa vào cảnh giới thấp).
    • Giải thích cơ chế: nghiệp đã tạo + duyên hội tụ → quả báo hiện tiền.
    • Trình bày các phương thức chuyển nghiệp: sám hối chân thành, bố thí (dāna), trì tụng kinh chú, làm phước, lễ cúng, hồi hướng công đức.
    • Nhấn mạnh tính tùy duyên: cùng một nghiệp có thể dẫn đến kết quả khác nhau vì duyên khác nhau; do đó vẫn có thể thay đổi bằng cách tạo nhân thiện mới.

    Phẩm muốn người đọc vừa có trí tuệ hiểu lý nhân quả, vừa phát tâm hành động để cứu mình và cứu người.


    2. “Nghiệp cảm” trong phẩm có phải là “đền tội” hay “bị trừng phạt” không?

    Trả lời:
    Không nên hiểu đơn giản là “thần thánh trừng phạt” hay “trả thù”. Trong Phật giáo, nghiệp là luật tự nhiên của nhân quả, không phải một quan tòa cá nhân phạt người. “Nghiệp cảm” tức là:

    • Hậu quả (quả) tự sinh do nhân đã gieo; có thể là kinh nghiệm đau khổ, gặp hoàn cảnh khó khăn, bệnh tật, hoặc những cơ hội hạn chế.
    • Nó không phải là án phạt vô lý, mà là hệ quả duyên hợp: hành động A + duyên B → kết quả C.
    • Vì duyên thay đổi được (ví dụ: gặp người thiện, được chữa bệnh, có phúc ấm), nên nghiệp cảm có thể nhẹ đi hoặc chuyển hóa nếu người tạo điều kiện thay đổi nhân (làm thiện, sám hối) và duyên (tìm sự giúp đỡ, điều chỉnh hành vi).

    Vì vậy phẩm khuyến khích hiểu nghiệp theo tinh thần khoa học tâm lý — có nguyên nhân, có thể can thiệp — chứ không phải bi quan chấp nhận như định mệnh.


    3. Phẩm mô tả những loại nghiệp cảm nào? Có ví dụ minh họa trong kinh không?

    Trả lời:
    Phẩm liệt kê nhiều dạng nghiệp cảm dưới dạng câu chuyện, dụ ngôn hoặc mô tả hình ảnh sinh động: bị đói khát do tham lam, bị bệnh tật do sát sinh, gặp tai nạn do hành vi bất chánh, bị trói buộc trong quan hệ vì vọng niệm tham ái, v.v. Các loại phổ biến:

    • Nghiệp thân: hành động thân (sát sinh, trộm cắp) dẫn đến hậu quả cơ thể (thương tật, tai nạn).
    • Nghiệp khẩu: lời nói dữ dằn, vu khống → mất danh tiếng, bị trả thù, bị cô lập.
    • Nghiệp ý: ý niệm sân hận, si mê → tâm bị rối loạn, tạo nhân tâm bệnh, quyết định sai lầm.

    Kinh thường dùng những hình ảnh cụ thể (ví dụ nhân bị rơi vào cảnh khổ, hoặc những câu chuyện tiền thân) để độc giả dễ hiểu. Mục đích không phải để dọa mà để thức tỉnh: thấy việc mình làm hôm nay sẽ sinh ra quả sau này.


    4. Nếu nghiệp quả có thể chuyển hóa, phẩm chỉ ra phương pháp nào cụ thể? Làm sao để giảm nghiệp cảm cho bản thân hay người đã khuất?

    Trả lời:
    Phẩm nêu nhiều pháp chuyển hóa nghiệp; các phương pháp chính và lý do hiệu quả theo phẩm:

    1. Sám hối chân thành (Confession):
      • Nhận diện lỗi lầm, ăn năn, xin lỗi (với người bị hại, Tam Bảo, tự sám).
      • Sám hối làm sạch tâm, phá bỏ kết cấu hành vi lặp lại — do đó làm giảm nhân xấu trong hiện tại và tương lai.
    2. Bố thí và làm phúc (Dāna):
      • Cho đi vật chất, thời gian, tri thức làm phát sinh phúc đức; phúc này được hồi hướng cho chúng sinh đau khổ.
      • Bố thí thay đổi nhân (tâm ích kỷ → rộng mở) và tạo duyên lành cho người nhận.
    3. Tụng kinh, trì chú, niệm danh hiệu (Practice):
      • Tụng Kinh Địa Tạng, niệm danh hiệu Địa Tạng, trì chú giúp tập trung tâm, chuyển hóa tập khí, và tạo năng lượng công đức để hồi hướng.
      • Kinh phẩm nhấn mạnh “nguyện lực và hồi hướng” (không phải mê tín) — khi tụng với tâm chân thành, năng lực tinh thần phát sinh, tác động lên duyên.
    4. Hành thiện, cứu giúp trực tiếp:
      • Việc cứu người thực tế (chăm sóc, y tế, hỗ trợ pháp lý) là cách chuyển nghiệp nhanh và thiết thực.
      • Kinh nhiều lần khuyến khích hành động cụ thể hơn là chỉ tụng niệm.
    5. Hồi hướng công đức cho người đã khuất:
      • Sau khi làm phúc, tụng kinh, nên phát nguyện hồi hướng tên người cần gửi (ví dụ: “Nguyện hồi hướng công đức này cho hương linh A…”).
      • Hồi hướng là hành động tâm linh có ý nghĩa: không đảm bảo kết quả cố định nhưng gieo duyên tốt, tạo năng lượng lành.

    Phẩm nhấn mạnh tính hệ thống: sám hối → làm phúc → tụng niệm → hồi hướng là một chu trình chuyển hóa nghiệp rất thực tiễn.


    5. Có sự khác biệt nào giữa “nghiệp cảm” và “bệnh tật do sinh học” (y học hiện đại)? Nên phối hợp thế nào?

    Trả lời:
    Cần phân biệt rõ:

    • Bệnh lý y sinh có nguyên nhân sinh lý, nhiễm trùng, di truyền, môi trường; cần chẩn đoán và điều trị y học kịp thời.
    • Nghiệp cảm nói về sự tương quan giữa hành vi, tâm lý, hoàn cảnh và những hậu quả tinh thần/xã hội — có thể làm nặng thêm hoặc kéo dài bệnh lý, nhưng không nên thay thế điều trị y tế.

    Phối hợp khôn ngoan:

    • Khi bị bệnh, đi khám, điều trị theo y học hiện đại; đồng thời áp dụng phẩm: sám hối nếu có lỗi, niệm kinh để an tâm, bố thí và hồi hướng để tạo công đức, và thay đổi lối sống để hạn chế nhân xấu tái sinh.
    • Tránh mê tín: không trì hoãn chữa trị y tế vì tin rằng “chỉ tụng kinh là khỏi”.

    Phẩm khuyên sự hài hòa giữa tri thức y học và trách nhiệm đạo đức — điều đó tạo duyên lành lớn cho chữa lành toàn diện.


    6. Khi tụng phẩm này cho người quá cố, cần lưu ý nghi thức và tâm thái như thế nào để việc hồi hướng được “chân chính”?

    Trả lời:
    Những lưu ý quan trọng khi tổ chức tụng/ hồi hướng cho người đã khuất:

    1. Tâm thành là trên hết: Người chủ trì và người dự phải có tâm chân thành, không vì lợi ích cá nhân hay phô trương.
    2. Chuẩn bị pháp lý, thực tế: lo hậu sự chu đáo, minh bạch, xử lý di sản, chu toàn cho gia đình còn sống — vì đây cũng là cách làm phúc cho người đã mất.
    3. Nghi thức: tụng kinh (cả phẩm liên quan), sám hối, cúng dường Tam Bảo, bố thí, làm phúc, rồi phát nguyện hồi hướng rõ ràng (nêu tên, mục tiêu: lìa khổ, sinh cõi lành, được duyên lành, v.v.).
    4. Kết hợp hành động lợi tha: giúp những người kém may mắn, quyên góp cho từ thiện nhân danh người quá cố — công đức này được xem là hồi hướng thực tiễn.
    5. Không thần thánh hóa: tránh dùng nghi thức để thao túng cảm xúc, gây mê tín hoặc trục lợi.

    Tinh thần phẩm là hồi hướng vì lợi ích chúng sinh, chứ không phải “mua” an toàn cho người chết.


    7. Phẩm cảnh báo gì về việc dùng “nghiệp” để biện minh cho bất công xã hội (ví dụ: đói nghèo là do nghiệp)?

    Trả lời:
    Một hiểu lầm tai hại là dùng thuyết nghiệp để bào chữa cho bất công hoặc thờ ơ với nạn nhân. Phẩm và tinh thần Phật giáo không ủng hộ điều này. Lưu ý:

    • Nghiệp có thể là một phần nguyên nhân, nhưng cấu trúc xã hội, lịch sử, chính sách, môi trường đều là duyên trọng yếu.
    • Dùng nghiệp để biện minh cho bất công là vô trách nhiệm; phẩm thúc giục phải hành động cứu giúp, cải thiện duyên cho người khổ.
    • Trong thực tế, Phật giáo cổ vũ làm việc thiện, tham gia công việc xã hội, chính sách công để giảm khổ cho nhiều người (vì đó là chuyển nghiệp tập thể).

    Do đó, phẩm kêu gọi trách nhiệm đạo đức và hành động, không phải thuyết “định mệnh” để buông xuôi.


    8. Người tu thực hành phẩm này cần có những thực hành cụ thể hàng ngày nào để chuyển hóa nghiệp cá nhân?

    Trả lời (gợi ý thực hành hàng ngày):

    1. Sáng sớm: 5–10 phút niệm chánh niệm, khởi tâm bố thí và hồi hướng. Niệm “Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát Ma Ha Tát” 10–21 lần.
    2. Trước khi hành động: tự tỉnh: “Việc này có lợi cho chúng sinh không? Có gây tổn thương không?” (suy xét nghiệp).
    3. Hành thiện nhỏ: mỗi ngày một việc tốt (giúp hàng xóm, nhắc nhở con cái, hiến máu, đóng góp xã hội).
    4. Sám hối buổi tối: nhìn lại hành vi trong ngày, xưng nhận lỗi, phát nguyện sửa sai.
    5. Tuần: tụng kinh, tham gia pháp hội hoặc làm công tác từ thiện.
    6. Khi gặp khổ: quán nhân duyên, thiền an tĩnh, xin lời khuyên từ vị thầy hoặc người có kinh nghiệm, kết hợp điều trị cần thiết.

    Chu trình này giúp “điều trị” nghiệp thường xuyên, chuyển hành vi xấu thành thiện.


    9. Phẩm này có những câu kệ, nghi chú hay lời hồi hướng mẫu nào dễ áp dụng cho cộng đồng không?

    Trả lời (một số mẫu tham khảo):

    • Kệ sám hối ngắn (cá nhân):

      “Con sám hối các hành bất thiện thân khẩu ý, xin thệ cố gắng sửa đổi, làm điều lành thay điều ác.”

    • Lời hồi hướng đơn giản:

      “Nguyện đem công đức này hồi hướng cho … (tên), nguyện cho họ lìa mọi khổ, sinh về cõi lành, được duyên lành tu hành.”

    • Câu niệm áp dụng nhanh:

      “Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát Ma Ha Tát” (niệm nhiều lần khi cảm thấy lo lắng, khi vào công việc thiện).

    • Lời phát nguyện cộng đồng:

      “Nguyện cho mọi chúng sinh được cơm no áo ấm, bệnh được chữa lành, trẻ em được học hành, người già được an nhàn.”

    Những mẫu này có tính ứng dụng trong lễ, trong gia đình, và trong công tác xã hội. Tốt hơn nếu có phiên bản do chư Tăng Ni địa phương soạn và hướng dẫn phát nguyện cho đúng truyền thống.


    10. Nguồn học thuật, nghiên cứu và cách tiếp cận phẩm này cho người muốn nghiên cứu sâu?

    Trả lời:
    Nếu bạn muốn nghiên cứu chuyên sâu về phẩm thứ tư:

    • Bắt đầu với bản Hán văn gốc (nếu có khả năng đọc) hoặc bản dịch tiếng Việt chuẩn của các chùa/Viện Phật học uy tín. So sánh các bản để thấy khác biệt chú giải.
    • Tham khảo chú giải của các học giả Phật học (Tích hợp góc nhìn lịch sử-philological và thần học).
    • Đọc luận giải về nhân quả và duyên sinh (Pratītyasamutpāda) trong Kinh điển Đại thừa để hiểu bối cảnh triết lý.
    • Kết hợp khảo sát thực hành: quan sát cách các đạo tràng tổ chức tụng niệm, thực hành hồi hướng, và tác động xã hội (công tác từ thiện, tang lễ).
    • Hội thảo liên ngành: tham gia khóa học liên quan tâm lý học, xã hội học tôn giáo để xem mặt trái và mặt phải của ứng dụng khái niệm nghiệp trong đời sống hiện đại.

    Lưu ý: khi tiếp cận, cần tránh cách đọc “mê tín” hoặc “bác bỏ” toàn bộ; thay vào đó, tiếp cận phẩm bằng tinh thần thực nghiệm và thực hành có trách nhiệm.

     

Share with friends and family!
 

Loading ....

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *